câu thơ về nguyễn du
Nhân kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du, người viết xin được góp đến hội thảo đề tài nhỏ: Nguyễn Du- Những niềm tri âm, qua một số bài thơ của Nguyễn Du và hậu thế viết về ông. Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình…
Trên bình diện phê phán hay lý luận văn học, có rất ít câu thơ trong tác phẩm của Nguyễn Du nói về thơ - điều ấy rõ - Nguyễn Du là nhà thơ, ông làm thơ, say đắm thơ, không mất thì giờ lý luận về thơ. Cho nên hai câu thơ cuối và đoạn thơ 1404 - 1466 nằm trong Truyện Kiều
Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích cái hay của nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong bài câu cá mùa thu. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước.
Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài "Thu điếu", nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là "điển hình
Trình bày những nét chính về tác giả Nguyễn Du – mẫu 1. Tác giả Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều là chủ đề lớn trong chương trình văn học phổ thông. Nguyễn Du là một tác giả lớn, là thi hào của dân tộc. Truyện Kiều là kiệt tác văn học có một không hai của dân
Gute Fragen An Jungs Zum Kennenlernen. Danh ngôn hay – Những câu danh ngôn hay nhất mọi thời đại về cuộc sống, tình yêu, tình bạn..Những câu danh ngôn ngắn gọn mà ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống của mỗi người.
Nguyễn Du là một tài năng thế kỷ của văn chương, ông đã tự kiến tạo nên thế giới nghệ thuật riêng trong các tác phẩm của mình, bằng sự tài hoa và tấm lòng nhân đạo, đại thi hào đã để lại cho hậu thế vô vàn những thi phẩm trác tuyệt. Sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan, cuộc đời Nguyễn Du đi qua không biết bao nhiêu sóng gió nhưng chính nhờ những truân chuyên ấy đã hun đúc nên một tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa lớn và tạo ra kiệt tác Truyện Kiều danh lưu bốn phía, tiếng truyền muôn đời. Nguyễn Du và tuổi thơ đầy mất mát đau thương trong gia đình quyền quý Đại thi hào tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên sinh năm Ất Dậu tại làng Tiên Đình, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình quý tộc nhiều đời làm quan lớn dưới triều vua Lê – chúa Trịnh và có truyền thống yêu thích văn chương, sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Du đã khởi nguồn từ truyền thống gia đình. Nguyễn Du là viên ngọc quý của văn đàn việt Nam Thuở nhỏ, cha của ông là Nguyễn Nghiễm đã làm quan đến chức quan tể tướng, trong lần cùng Hoàng Nguyễn Phúc dẫn quân đi đánh chúa Nguyễn ở đàng Trong đã lâm vào trận bạo bệnh và từ trần trong lúc dưỡng thương ở quê nhà, khi ấy Nguyễn Du vừa lên chín tuổi. Đến năm mười hai tuổi, thân mẫu của ông là bà Trần Thị Tần cũng qua đời, Nguyễn Du từ thuở nhỏ đã chịu cảnh mồ côi cha mẹ và phải sống chung với người anh khác mẹ hơn ông 31 tuổi là Nguyễn Khản, đương là trấn thủ Sơn Tây. Sau đó không lâu, anh của Nguyễn Du bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý và phải chịu giam cầm ở nhà Châu quận công, ông được người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tấn nhận nuôi và đến ở tại Sơn Nam Hạ. Tuổi thơ của Nguyễn Du hầu như đều gắn liền với mất mát và đau thương, phải chứng kiến quá nhiều sự li biệt và cái chết của người thân đã phần nào ảnh hưởng sâu sắc đến ông cũng như đời thơ sau này. Mười năm gió bụi đã tạc nên một đời văn vĩ đại Được Đoàn Nguyễn Tấn nuôi ăn học, Nguyễn Du đã đỗ Tú tài trong kì thi Hương ở Sơn Nam năm Quý Mão rồi lấy Đoàn Thị Huệ, con gái quan Ngự Sử Đoàn Nguyễn Thục làm vợ và mở ra những năm tháng lưu lạc đầy sóng gió nơi đất Bắc. Mười năm gió bụi đã hun đúc nên một tài năng thế kỷ Nguyễn Du gọi mười năm đó là thập tải phong trần mười năm gió bụi, chính những năm tháng này đã làm nên tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa lớn của nhà thơ để đến muôn đời sau khi đọc lại những áng thơ của đại thi hào, người ta vẫn luôn cảm nhận được như có máu nhỏ trên ngọn bút, nước mắt sa trên tờ giấy. Sống trong cảnh lang bạt nơi xứ lạ trong hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề, Nguyễn Du cũng từng nhiều lần trầm mặc chua xót cho cuộc đời chính mình chưa làm nên công danh đã rơi vào ngõ cụt và thầm xót xa cho thảm kịch mà gia đình ông phải gánh chịu. “Mười năm trọn quê người nấn ná Nương quê người tóc đã điểm sương.” – U cư Trong mười năm lưu lạc ở quê vợ ấy, Nguyễn Du sống gần gũi với nhân dân và thấm thía bao nỗi cơ cực mà tầng lớp bình dân thấp cổ bé họng phải chịu đựng thời bấy giờ. Ông thấu cảm cho bao nỗi ấm lạnh của nhiều mảnh đời bất hạnh và chính những nỗi niềm ấy đã để lại trong tâm hồn đại thi hào những luồng sáng quý giá của tư tưởng sâu sắc. Về sau, nhờ mười năm gió bụi này mà Nguyễn Du đã cho ra đời không ít danh tác cảm động lòng người như Long thành cầm giả ca, Độc Tiểu Thanh ký hay Văn tế thập đại chúng sinh. Tấm lòng cao cả của Nguyễn Du đã làm nên những kiệt tác để đời Mỗi tác phẩm của ông đều hướng về một thân phận bất hạnh nào đó, chính những nỗi thấu cảm mà đại thi hào dành cho con người đã hun đúc nên một tài năng của thế kỷ. Nỗi trăn trở lớn nhất của đại thi hào Ở thi phẩm Độc Tiểu Thanh ký, sau nỗi thấu cảm mà Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh, người phụ nữ tài sắc nhưng bạc mệnh sống cách ông ba thế kỷ dưới thời nhà Minh, đại thi hào đã tự vấn lòng mình rằng liệu sau ba trăm năm lẻ nữa liệu người đời có ai sẽ nhớ và thương cho nỗi đau của Nguyễn Du như ông đã từng thương cho Tiểu Thanh hay không. “Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như.” – Độc Tiểu Thanh ký Sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan, cuộc đời Nguyễn Du đi qua không biết bao thương hải tang điền nhưng đâu mới thực sự là nỗi đau lớn nhất cuộc đời ông? Đó là đau thương khi gặp cảnh gia đình ly tán, nỗi cảm thông day dứt với những kiếp người bất hạnh không chốn dung thân hay điều gì khác đã khiến đại thi hào phải trăn trở cả đời vẫn là một ẩn số ít ai biết đến. Người xưa quan niệm Tôi trung không thờ hai chúa, một quan thần trung quân ái quốc sẽ không thờ hai vua nhưng Nguyễn Du lại làm quan hai triều, trước là quan dưới nhà Lê, sau là quan của nhà Nguyễn. Thể xác Nguyễn Du nằm lại với đất nhưng linh hồn ông vẫn sống mãi trong lòng người Dù ở triều đại nào ông cũng làm quan lớn và cống hiến rất nhiều cho nước nhà nhưng điều này vẫn luôn là nỗi trăn trở day dứt trong lòng Nguyễn Du, đó là một niềm đau với chí làm trai của người nam nhi lúc đương thời. Gia tộc của ông cả sáu đời đều làm quan dưới triều vua Lê – chúa Trịnh, cha Nguyễn Du từng phò chúa Trịnh Doãn lên ngôi và mang quân đánh dẹp đất Bắc, với những chiến công hiển hách trải dài gần nghìn năm ấy của dòng tộc họ Nguyễn, dân gian đã lưu truyền lại bằng đôi câu thơ “Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước, nhà này hết quan.” Tuy nhiên, Ngàn Hống cây vẫn xanh, sông Rum nước vẫn chảy mà nhà họ Nguyễn đã đến ngày suy vong, Nguyễn Du sức hèn không làm nên chuyện lớn cứ thế nhìn gia tộc sụp đổ và từng người thân ngã xuống trong thảm kịch của chiến tranh. Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi lập nên nhà Tây Sơn, ông đã có ý định chiêu mộ nhân tài nhà Lê về làm quan với mục đích hàn gắn những nứt vỡ của hai miền từ trăm năm nay. Tuy nhiên xã hội đương đời đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng của Nho Giáo, vì thế những người tài của nhà Lê hoặc lui về ở ẩn hoặc liều mình trung hưng triều xưa. Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều lưu danh thiên cổ Đối với Nguyễn Du, ông lựa chọn cách đầu tiên, không màng thế sự khói lửa và cuộc đua tranh của những thế lực phong kiến, nhà thơ lui về ở ẩn và phó mặc cho số phận chỉ định tương lai đời mình. “Cũng liều nhắm mắt đưa chân Để xem con tạo xoay vần đến đâu.” – Truyện Kiều Tuy nhiên, cuối cùng nhân tài như Nguyễn Du cũng không thoát khỏi tầm mắt của Gia Long Nguyễn Ánh, nhà vua từng nhiều lần cho người mời ông về làm quan song đều bị từ chối, tuy nhiên không vì thế nhà Nguyễn mất đi kiên nhẫn, chỉ khi Nguyễn Du chấp nhận thì Gia Long mới cho dừng việc chiêu mộ. Dưới triều nhà Nguyễn, đại thi hào thăng quan tiến chức nhanh như diều gặp gió và từng nhiều lần được cử đi sứ sang nhà Thanh song trong lòng Nguyễn Du vẫn luôn chấp niệm nhà Lê và sáu đời quan huy hoàng của gia tộc mình. Chính điều này đã trở thành nỗi day dứt đeo bám ông suốt cuộc đời, cũng vì vậy mà khiến cho vua Nguyễn không hoàn toàn tin tưởng Nguyễn Du hay nói đúng hơn là Gia Long chưa bao giờ tín nhiệm tuyệt đối với các sĩ phu Bắc Hà vẫn luôn sục sôi trong lòng ý niệm trung hưng triều cũ. Đại thi hào Nguyễn Du và cuộc đời lắm nỗi truân chuyên sóng gió Dù trong lòng luôn chấp nhất với triều Lê nhưng Nguyễn Du vẫn hoàn thành đúng sứ mệnh của một quân thần nhà Nguyễn, tên tuổi của ông gắn liền với vô số công lao hiển hách đã giúp cho nước nhà này một phát triển. Ngoài tài văn chương thi phú thì những cống hiến cũng là điểm sáng nổi bật giúp Nguyễn Du trở thành Danh nhân văn hóa thế giới. Vì luôn sống với nỗi trăn trở khôn nguôi không người giãi bày ấy mà Nguyễn Du chưa bao giờ ngừng hy vọng sẽ có người hiểu ông, hậu thế ba trăm năm sau sẽ thấu cảm cho kiếp người tài hoa của Nguyễn Du như đại thi hào đã từng cảm thông cho Tiểu Thanh. Không cần đến ba thế kỷ sau cũng đã có rất nhiều thi sĩ hiện đại nói riêng và nhân dân nói chung thương xót ông, họ luôn thấu cảm cho kiếp người tài hoa nhưng lại bị trời xanh lưu đày đến cùng đường tuyệt lộ và phải chịu những nỗi đau không ai hiểu thấu. “Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.” – Tố Hữu Nguyễn Du là người tài nhưng lại phải sống cả đời trong đau thương do những số phận mang lại, chính vì vậy mà tài hoa bạc mệnh đã trở thành đề tài chủ chốt trong thi ca của ông, đại thi hào thương người và cũng tự thương cho chính cuộc đời mình. Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều lưu danh thiên cổ Gắn liền với tên tuổi của đại thi hào lúc đương thời là danh tác Đoạn Trường Tân Thanh, đó là tiếng kêu thanh tân về một nỗi đau xé lòng của những phận người bạc mệnh còn vang vọng đến hậu thế trăm năm sau dưới cái tên Truyện Kiều. Nguyễn Du được công nhận là danh nhân văn hóa thế giời Tác phẩm bằng giá trị nhân văn sâu sắc đã vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và trở thành bản trường ca đi cùng năm tháng, đến thời điểm hiện tại, Truyện Kiều vẫn neo đậu vững chắc trong lòng hàng triệu người độc bởi sức sống mãnh liệt lay động hồn người. Mặc dù vẫn còn rất nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh nội dung của tác phẩm song khi bàn về nghệ thuật của Truyện Kiều, không ai có thể đưa ra lời chê trách nào bởi những thủ pháp, ngôn ngữ và giọng điệu mà Nguyễn Du sử dụng trong thi phẩm đã đạt đến trình độ mà hầu như không ai với tới. “Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung”. – Hoài Thanh Kiệt tác Truyện Kiều là ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương Việt Nam, không chỉ ở nội dung nhân đạo mà còn là nghệ thuật đỉnh cao không tài năng nào đuổi kịp. Nguyễn Du là ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương Việt nam Thi phẩm là tấm gương lớn đặt giữa xã hội đương thời để người đọc soi vào đó mà thấy được một xã hội suy đồi về đạo đức, hủ lậu trong nhân tính và đồng tiền xoay tròn trên lương tâm con người như thế nào, cũng chính từ sự suy thoái ấy mà biết bao phận người đã bị đẩy vào cùng đường tuyệt lộ. Truyện Kiều là một tiếng kêu than, một ước mơ về công lý và cũng là một cái nhìn bế tắc mà Nguyễn Du giành cho số phận của những nhân vật trong truyện cũng như cho chính cuộc đời mình. Ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng để lại cho đời sau không ít tác phẩm hay, điển hình như các tập thơ cả chữ Hán lẫn Nôm là Thanh Hiên thi tập, Bắc Hành tạp lục, Nam Trung tạp ngâm và rất nhiều thi phẩm khác. Tài năng của Nguyễn Du đã tạc vào lòng thế kỷ văn chương một dấu ấn không bao giờ phai nhạt, bằng tấm lòng nhân đạo cao cả và sự tài hoa của mình, đại thi hào đã đưa đất nước hóa thành văn. Diệu Uyển
Tháng Ba 13, 2011 at 209 chiều Nguyễn Du 1765- 1820 là Đại thi hào dân tộc. Truyện Kiều là kiệt tác văn chương bất hủ của mọi thời đại. Cuộc đời chìm nổi của nàng Kiều qua thể hiện tài tình của Nguyễn Du đã làm rơi bao nước mắt của lớp lớp thế hệ người Việt. Thơ viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều xưa nay rất nhiều, nếu sưu tập lại sẽ thành một cuốn sách dày. Ở đây chỉ chọn một số bài tiêu biểu. Có thể mỗi người có sự lựa chọn khác nhau. Đây chỉ là sự lựa chọn chủ quan của cá nhân. Trong một số bài thơ có tả phần mộ Nguyễn Du “sè sè nắm đất bên đường” như mộ Đạm Tiên. Đó là do các tác giả đến thăm khi khu mộ chưa được tôn tạo. Chính tôi PDK cũng đã từng đến thăm mộ Nguyễn Du vào năm 1963 và thấy cảnh hiện ra trước mắt đúng như vậy xin xem “Một chuyến tham quan đặc biệt” . Lăng mộ Nguyễn Du mới được tôn tạo vào năm 1989 . Sau đây là một số bài thơ về Nguyễn Du và Truyện Kiều do Phan Duy Kha sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu . * ĐỀ TỪ CỦA PHẠM QUÝ THÍCH Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường Bán thế yên hoa trái vị thường Ngọc diện khởi ưng mai thủy quốc Băng tâm tự khả đối Kim Lang Đoạn trường mộng lý căn nguyên liễu Bạc mệnh cầm chung oán hận trường Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy Tân thanh đáo để vị thùy thương . Bản dịch của Phạm Quý Thích Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan Yên hoa bao trắng nợ hồng nhan Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng Vẻ ngọc chưa phai chốn thủy quan Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp Một dây bạc mệnh dứt cầm loan Cho hay những kẻ tài tình lắm Trời bắt làm gương để thế gian. Bản dịch của Lê Thước Hồng nhan ví chẳng đến Tiền Đường Nửa kiếp yên hoa nợ vẫn mang Mặt ngọc dễ hầu vùi đáy nước Tiết băng không thẹn dối lòng chàng Đoạn trường tỉnh giấc nguồn cơn rõ Bạc mệnh đàn xong mối hận vương Một mảnh tài tình thiên cổ lụy Tân thanh đau xót tỏ tình thương . Bản dịch của Phan Duy Kha Người đẹp ví không đến Tiền Đường Nửa đời chưa trả nợ còn vương Mặt ngọc há đành vùi đáy nước Tiết băng đâu thẹn gặp Kim Lang Mộng tỉnh “đoạn trường” nguồn cơn tỏ Đàn xong “bạc mệnh” hận còn mang Một mảnh tài tình muôn thuở lụy Tân Thanh này để tỏ đau thương * TỔNG VỊNH NÀNG KIỀU Kiều nhi giấc mộng bặt như cười Tỉnh dậy xuân xanh quá nửa rồi Số kiếp bởi đâu mà lận đận Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi Cành thoa vườn Thúy duyên còn bén Ngọn nước sông Tiền nợ chửa xuôi Không trách chàng Kim đeo đẳng mãi Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi . KIỀU BÁN MÌNH Thằng bán tơ kia dở dói ra Làm cho bận đến cụ Viên già Muốn êm phải biện ba trăm lạng Khéo xếp nên liều một chiếc thoa Đón khách mượn màu son phấn mụ Bán mình chuộc lấy tội tình cha Có tiền việc ấy mà xong nhỉ Ngày trước làm quan cũng thế a ? Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến có 4 bài, ở đây chỉ chọn 2 * TỔNG VỊNH TRUYỆN KIỀU Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sương Sắc tài chi lắm để làm gương. Công cha bao quản liều thân thiếp Việc nước xui nên phụ nghĩa chàng. Cung oán nỉ non đàn bạc mệnh Duyên may run rủi lưới Tiền Đường Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng. BÀI THƠ ĐẦU TRUYỆN KIỀU 1 Trời sá ghen đâu khách má hồng Đoạn trường nợ lắm phải đền xong, Hiếu tình chất nặng đôi vai gánh, Thân thế xoay quanh một giấc mòng, Giọt nước sông Tiền oan dễ trắng Ngắm trăng hiên Thúy vẻ còn trong. Một thiên chép để làm gương lại Trời sá ghen đâu khách má hồng. 2 Chẳng lọ than thân, lọ trách trời Má đào ai có khác chi ai. Tiền đường ví hẳn nay đành kiếp, Kim Trọng vì đâu trước nặng lời ? Khi biến, khi thường nào phải một Chữ tài, chữ mệnh dễ hòa hai. Mười lăm năm ấy gương nghìn thuở, Ả Lý, nàng Oanh được mấy người ? Chu Mạnh Trinh Chu Mạnh Trinh có 20 hồi vịnh Kiềuvà 1 bài Tổng vịnh, ở đây chỉ chọn 3 bài * VỊNH KIỀU Tiếng trống biên đình bốn phía ran Tướng quân chi tiếc cái hoa tàn Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan Tổng đốc ví thương người bạc phận Tiền Đường đâu đã mả hồng nhan Bơ vơ nấm đất ven sông đó Hồn có nghe chăng một tiếng đàn . Tản Đà * MỐI TÌNH ĐẦU Gọi đời là ” Cõi người ta” Sao nghe thấm thía xót xa nỗi mình? Tố Như ơi, lụy và tình Nghìn xưa như bóng với hình y nguyên Tình Kiều nếu bén duyên Kim Thủy chung vẫn tiếng con chim gọi lòng Một đời trải mấy long đong Tha hương vẫn giọt máu hồng cố hương! Dù cho người khách viễn phương Gươm vàng nửa gánh , biên cương một trời Uy danh lệch đất nghiêng trời Vẫn vầng trăng ngọc, vẫn lời thề xưa. . . Tiền Đường rửa hết oan thơ Mười lăm năm ấy bây giờ là đây Tờ hoa đó, tóc mây này Vẫn nguyên hương sắc như ngày yêu nhau ! Hồ Dzếnh * CẢM ĐỀ ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH Oan nghiệt khư khư buộc lấy mình Xót cho tài sắc lại đa tình. Gió mưa năm ngón, hai hàng lệ, Cát bụi mười phương một chữ trinh. Giữa cuộc bao phen liều nhắm mắt, Trong mưa nửa kiếp đã in hình, Đoạn trường tiếng ấy nghìn thu mới, Trang cảo thơm còn dấu hiển linh. 2 Trăng xế hoa gần, đêm tịch liêu, Sử phong tình ngát, sóng tình xiêu Văn Hà Tĩnh, truyện đời Gia Tĩnh. Nhớ Át Kiều, thương nghiệp Thúy Kiều Hòn đá ba sinh lăn lóc mãi Tấm lòng thiên cổ vấn vương nhiều. Mua vui cũng được . . .ai người khóc Hoài cảm riêng mình thử nối điêu. Vũ Hoàng Chương Vũ Hoàng Chương có 5 bài vịnh Kiều, ở đây chỉ chọn 2 bài * KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều Hỡi lòng tê tái thương yêu Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh Ngổn ngang bên nghĩa, bên tình Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao ? Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường ! Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng Nhân tình, nhắm mắt, chưa xong Biết ai hậu thế, khóc cùng Tố Như ? Mai sau dù có bao giờ Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay . Tiếng đàn xưa đứt ngang dây Hai trăm năm lại càng say lòng người Trải bao gió dập sóng dồi Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha Đau đớn thay phận đàn bà Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân ! Ngẫm xem qua kiếp phong trần Đời vui nay đã nửa phần vui đây Song còn bao nỗi chua cay Gớm quân Ưng Khuyển, ghê bầy Sở Khanh Cũng loài hổ báo ruồi xanh Cũng phường gian ác hôi tanh hại người ! Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời nghìn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày Hỡi người xưa của ta nay Khúc vui xin lại so dây cùng người ! Sông Lam nước chảy bên đồi Bỗng nghe trống dục ba hồi gọi quân. . . Tố Hữu * THĂM MỘ CỤ NGUYỄN DU Thật kỳ lạ nơi Nguyễn Du nằm đó Cũng cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia Cũng nấm mộ sè sè ngọn cỏ Trong trang Kiều tôi đọc dưới đèn khuya. Không phải tiết sụt sùi tháng bảy Ánh chiều hè man mác hàng dương Đỉnh Hồng Lĩnh soi dòng Lam cuộn chảy Tiếng cuốc cào lách cách giữa đồng nương. Tìm mộ Nguyễn Du như Kim Trọng tìm Kiều Qua nhịp cầu ai đó ghé trông theo Giữa khoai lúa người nằm giản dị Phảng phất hương bay trong gió chiều. Tiếng người hát xưa thấm đầy nước mắt Thấm vị đời cay đắng khổ đau . Hai thế kỷ đi qua trên nấm đất Mấy kiếp người, mấy cuộc bể dâu. Đời nay đẹp gấp trăm lần thuở trước Giở trang Kiều còn rung động ý thơ. Thơ Người mãi sống cùng đất nước Dù mai sau dù có bao giờ. . . Hoàng Trung Thông * BÊN MỘ CỤ NGUYỄN DU Tưởng là phận bạc Đạm Tiên Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây Ngẩng trời cao, cúi đất dày Cắn môi, tay nắm bàn tay của mình Một vùng cồn bãi trống chênh Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề Hút tầm chẳng cánh hoa lê Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non Xạc xào lá cỏ héo hon Bàn chân cát bụi, lối mòn nhỏ nhoi Lặng yên bên nấm mộ rồi Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm. Không cành để gọi tiếng chim Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời Không vầng cỏ ấm tay người Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu Thanh minh trong những câu Kiều Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân. Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân Phong trần còn để phong trần riêng ai Bao giờ cây súng rời vai Nung vôi, chở đá tượng đài xây lên 1 Trái tim lớn giữa thiên nhiên Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa. . . 1982 Vương Trọng 1 Bài thơ này làm năm 1982, mãi đến năm 1989 lăng mộ Nguyễn Du mới được xây dựng như mong muốn của tác giả. * NGOẢNH MẶT GIANG ĐÌNH Rặng bần áp bến đò ngang Để sông Lam chẳng lẫn sang sông Tần Đỉnh Hồng gấp cánh phù vân Chín mươi chín ngọn in ngần trời quê Bên sông buổi ấy người về Mon men tùng cúc thu kề ngoài song Giang Đình 1 kề mảnh trăng trong Tiếng chày ánh lửa động lòng cố hương Vớt lên khói sóng Tiền Đường Trăm năm này cõi vô thường người ta Bụi hồng bạc xóa lau xa Tiếng Kiều đồng vọng cỏ hoa cúi đầu Sông in núi chẳng thay màu Ngả dài điệu sóng thuyền câu bập bềnh Giang Đình ngày rộng thênh thênh Cánh buồm xa thoắt qua ghềnh triều lên Cỏ thơm Vạt áo Tiên Điền Thi nhân chừng mới như biền biệt đây Chiều tà buộc nắng lưng cây Biết đâu mây trắng còn ngây lối về. . . Phạm Trọng Thanh 1 Giang Đình là một bến đò cổ ở quê hương Nguyễn Du, nơi Nguyễn Du có làm bài thơ ghi lại việc đón thân phụ là Nguyễn Nghiễm về quê. Giang Đình là một trong Nghi Xuân bát cảnh Giang Đình cổ độ. * VIẾNG MỘ NGUYỄN DU Thắp hương cúi xuống lạy người Nắng nung mặt đất nghe trời quặn đau Gợi lên một ngọn dầu hao Mắt rung bóng ngựa, nao nao vó chiều Đường chôn dấu bước Thúy Kiều Hiu hiu hương nắng, tím đèo mây trôi Ra về dặm nhớ xa xôi Cỏ non ở lại, riêng tôi dặm buồn. Nghi Xuân, 1988 Hải Bằng * NHỚ TỐ NHƯ Mấy trăm năm đã qua rồi Gò đất nấm mộ của Người còn đây Ngay bên vạt ruộng đang cày Gốc cây buộc ngựa thì nay chẳng còn Nhưng không mất được lối mòn Đẹp như sợi chỉ để con tìm về Cái thời rất khó khen chê Vua thì hại gái vừa mê đàn bà Cái thời có một bông hoa Như sinh ra chỉ để mà vô duyên Cái thời có một người em Đưa mình thế chị ở trên đời này Cái thời ngẫm lạ lùng thay Những người chân thật lại hay tội tình Những người biết phải làm thinh Còn đâu như ở nước mình nữa không Nhà thơ đứt ruột, đứt lòng Phải đi mượn chuyện bên sông nước người Chuyện xa xưa, chuyện cũ rồi Để mà nói những buồn vui nước mình. . . Càng khi đất nước thanh bình Thơ Người càng được chúng sinh nhắc nhiều Nước non có một Truyện Kiều Bao nhiêu lần đọc, bấy nhiêu lần buồn Đã đành thuở ấy nước non Nhân tình thế thái chẳng còn ra chi Dân nghèo và nước đang suy Cô Kiều cực nhục có gì lạ đâu. . . Thế mà trong cuộc bể dâu Người xem vương miện trên đầu như không Truyện Kiều con đọc đã xong Gần ba thế kỷ, đọc trong một chiều Người ơi, Người viết Truyện Kiều Về xem đất nước quá nhiều đổi thay. . . 1994 Phạm Việt Thư * VIẾNG CỤ NGUYỄN DU Bên mồ thi sĩ lệ tuôn rơi Hậu thế tìm đâu để có người Thương phận má đào cơn gió dập Xót đời mệnh bạc cánh bèo trôi Ghê phường trục lợi tài xu thế Gớm lũ tham danh giỏi nịnh thời Tam bách niên dư thiên hạ phục Trước mồ thi sĩ lệ tuôn rơi . 1993 Phan Mạnh * ĐỌC LẠI NGUYỄN DU Quá khuya – chợt thấy mình già Nhìn ra cửa sổ, mưa sa kín trời Một đời gọi mãi , người ơi! Một đời khát vọng , một đời bồng bênh Mê say là chuyện đã đành Biết đâu tỉnh lại, nhân tình trắng phau! Áo cơm se sắt mái đầu Thương nhau mà giận, ngó nhau mà buồn! . Rạc rài chút phận văn chương Cao sang nhòe lẫn tầm thường, ngẩn ngơ. . . Bằng Việt * THĂM NHÀ THỜ CỤ NGUYỄN DU Mù sương chầm chậm sông Lam Heo heo vàng lá nhuốm hàng tre quê Cánh cò rời rã chân đê, Khí thu mờ mịt vọng về hồn xưa Bút nghiên khóc những vần thơ “Một thiên bạc mệnh” đến giờ còn đau Cuộc đời bãi bể nương dâu Đìu hiu mặt nước, phau phau sóng cồn “Đoạn trường” càng ngẫm càng thương Run run thắp một nén hương dâng người Trăm năm mua một tiếng cười Ngàn năm sau vẫn khóc người đời xưa Nghẹn ngào thành kính câu thơ Nỗi đau xưa đến bây giờ. . . còn đau! Phạm Xuân Trường * TÂM SỰ NÀNG THÚY VÂN Nghĩ thương lời chị dặn dò Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim Ơ kìa! Sao chị ngồi im Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chị làm chồng Đời em thề thắt một vòng oan khiên Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên Chị thương kẻ khuất, đừng quên người còn Mấp mô số phận vuông tròn Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu! Là em nói vậy thôi Kiều Sánh sao đời chị ba chiều bão giông Con đò đời chị về không Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường Chị nhiều hờn giận, yêu thương Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò Em chưa được thế bao giờ Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nối khát khao Kiều ơi, em biết khi nào được yêu! Trương Nam Hương Entry filed under Uncategorized.
Những năm 1940, nhà ᴠăn Trương Tửu - một trong những tác giả ᴠiết nhiều nhất ᴠề Truуện Kiều ở Việt Nam, nhận định “Nguуễn Du là một con bệnh thần kinh”. Hơn 10 năm ѕau, ông ᴠiết ѕách thừa nhận “Tôi đã ѕai lầm!”.Bạn đang хem Nhận định ᴠề nguуễn duTrương Tửu nằm trong nhóm học giả đầu tiên được phong hàm Giáo ѕư của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cùng ᴠới Đặng Thai Mai, Đào Duу Anh, Nguуễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Cao Xuân Huу, Trần Văn Giàu…Nhà ᴠăn, nhà giáo Trương TửuPhát biểu đầu tiên trong tọa đàm, GS Phong Lê ngaу lập tức nhắc đến chủ đề quan trọng nhất trong những trang ᴠiết của Trương Tửu ᴠới tư cách nhà phê bình ᴠăn học. Đó là "Truуện Kiều ᴠà Nguуễn Du" 1943.Trương Tửu từng хuất bản 2 cuốn ѕách phê bình "Nguуễn Du ᴠà Truуện Kiều" ᴠà "Văn chương Truуện Kiều" 1944 ᴠới bút danh Nguуễn Bách đó, ông gaу gắt phê phán “Nguуễn Du là một con bệnh thần kinh”, ông cho rằng Truуện Kiều là kết tinh của “3 уếu tố ѕuу đồi” của Nguуễn Du, đó là “ѕinh hoạt cằn cỗi ᴠà ѕáo loạn, một tư tưởng hèn nhát ᴠà ủу mị, một tâm lý tùу thời ᴠà ích kỷ”.Xem thêm Ca Dao Tục Ngữ Nói Về Lòng Nhân Hậu ❤️️Ý Nghĩa Nhất, Tìm Và Ghi Lại Thành Ngữ, Tục Ngữ Về Lòng Nhân ÁiNhận định của Trương Tửu ᴠề Truуện Kiều khi đó ᴠấp phải ѕự phản đối gaу gắt của các học giả khác như Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh… Hơn 10 năm qua đi ᴠới bao nghiền ngẫm, đến năm 1956, Trương Tửu mới ᴠiết chuуên khảo mới có tên "Truуện Kiều ᴠà thời đại Nguуễn Du", ông thẳng thắn thừa nhận cách nhìn ѕai lầm ngàу thừa nhận “Tôi đã cố gắng phân tích ᴠà phê phán Truуện Kiều theo quan điểm đấu tranh giai cấp. Nhưng ᴠì trình độ lý luận còn ấu trĩ, lập trường chính trị còn lệch lạc… nên đã có những nhận định ѕai lầm căn bản”. Ông cũng nhận định lại “Tác giả Truуện Kiều đứng ᴠề phía các tầng lớp nhân dân chống phong kiến đương thời” ᴠà “Nguуễn Du là một nghệ ѕĩ thực ѕự ᴠĩ đại”.Mặc dầu còn ᴠương ít nhiều trong hệ thống tư tưởng duу tâm, ѕiêu hình của phong kiến - điều nàу chúng ta cần phải phên phán - Truуện Kiều căn bản ᴠẫn là một tác phẩm ᴠăn học nhân dân, tiến bộ, một tác phẩm cổ điển tiêu biểu của ᴠăn học dân thêm Lịch Tập Nhảу Dâу Tăng Chiều Cao Không ? 3 Cách Tập Tại Nhà Hiệu Quả NhấtNhân dân Việt Nam lấу làm ᴠinh dự có Nguуễn Du, có Truуện Kiều. Chúng ta ᴠô cùng biết ơn ᴠà kính mến thi ѕĩ thiên tài của dân tộc.Trương Tửu, 1956Theo nhà giáo Nguуễn Cảnh Tuấn ᴠiết trong tham luận ᴠề Trương Tửu, lúc ᴠề già, nhà ᴠăn ᴠẫn không hết dằn ᴠặt. Ông từng tâm ѕự “Đến bâу giờ tôi ᴠẫn chưa ᴠiết hết, ᴠẫn còn nợ cô Kiều. Hoàn cảnh thời cuộc, naу mới có dịp trả nợ thì tuổi đã cao, ѕức đã уếu”.Cuốn ѕách Trương Tửu - Tuуển tập nghiên cứu ᴠăn hóa do PGS-TS Nguуễn Hữu Sơn Viện Văn học biên ѕoạn ra mắt nhân 100 năm ngàу ѕinh nhà ᴠăn
Thơ Nguyễn Du Về Tình Yêu ❤️️ Những Câu Thơ Tình Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Những Bài Thơ Tình Hay Nhất Của Đại Thi Hào Nguyễn Du. Thơ Nguyễn Du Về Tình Yêu Thơ Tình Nguyễn Du Những Câu Thơ Về Tình Yêu Trong Truyện KiềuNhững Bài Thơ Hay Khác Của Nguyễn DuĐộc Tiểu Thanh KýSơn Cư Mạn HứngĐối TửuHá Than Hỷ PhúTruyện Kiều – Hồi 01 Ngoài các bài thơ với chủ đề đề cao giá trị nhân văn con người, lên án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp con người,… thì Nguyễn Du cũng có viết một số bài liên quan đến tình yêu, tình cảm con người. Dưới đây là một số câu thơ của Nguyễn Du về tình yêu mà sưu tầm được. Tương truyền khi còn trẻ, Nguyễn Du khi ấy thường gọi là cậu Chiêu Bảy. Ông rất thích hát phường vải. Bấy giờ có làng Trường Lưu cũng thuộc huyện Nghi Xuân, là một trong những làng nổi tiếng về hát phường vải, về nghề dệt vải và về con gái đẹp. Làng Tiên iền thì có nghề làm nón; con trai phường nón thường kéo nhau sang hát phường vải ở Trường Lưu. Họ đi hát vì mê hát , nhưng một phần cũng vì mê các cô gái đẹp. Trong các chuyến đi ấy, Chiêu Bảy chẳng bao giờ vắng mặt. Có một đêm hát nọ, Chiêu Bảy tình cờ gặp được một cô gái tên Cúc, người đẹp, giọng hay, tài bẻ chuyện, nhưng chỉ phải một nỗi đã sắp quá thì mà vẫn chưa chồng. Chiêu Bảy biết thóp như vậy, liền bẻ ngay một câu như sau để ghẹo chơi Trăm hoa đua nở mùa xuân,Cớ sao Cúc lại muộn màng về thu? Thoáng nghe qua cô Cúc đã hiểu ngay ý tứ của đối phương, bèn hát đáp lại rằng Vì chưng tham chút nhụy vàng,Cho nên Cúc phải muộn màng về thu. Một hôm, Nguyễn Du đến chậm nên bị lỡ chuyến đò, ông phải chờ đợi sốt ruột, nên làm một bài thơ nhờ bạn đưa cho cô gái, để tỏ lòng mình và cũng để thử lòng cô gái Ai ơi, chèo chống tôi sangKẻo trời trưa trật, lỡ làng tôi raCòn nhiều qua lại lại qua,Giúp cho nhau nữa để mà… Câu thơ cuối, Nguyễn Du cố ý bỏ lửng để chờ cô gái điền vào. Nhận được, cô gái bẽn lẽn và từ chối; nhưng về sau nể lời bạn cô, cô cũng thêm vào hai chữ… quen nhau. Cập nhật thông tin về 🔰Thơ Nguyễn Du 🔰Ngoài Các Câu Thơ Nguyễn Du Về Tình Yêu Thơ Tình Nguyễn Du Nói về thơ tình Nguyễn Du thì phải nói đến giai thoại khi Nguyễn Du và cô gái tên Cúc chính thức yêu nhau. Nhà thơ thổ lộ tâm tình ra bốn câu lục bát tình yêu như sau Quen nhau nay đã nên thươngCùng nhau xe mối tơ vương chữ tìnhCảnh xinh xinh, người xinh xinh,Trên trời, dưới nước, giữa mình với ta. Hai người yêu nhau thắm thiết, quyết chí lấy nhau, nhưng rồi không lấy được nhau. Bởi lẽ đơn giản Nguyễn Du là cậu trai quý tộc mà cô kia thì chỉ là một cô gái bình dân. Hơn 10 năm sau, khi Nguyễn Du có dịp trở lại bến cũ đò xưa thì cô gái đi lấy chồng lâu rồi, chỉ còn cây đa vẫn còn xanh tươi trước gió, dòng nước đỏ vẫn lặng lẽ trôi xuôi. Trông cảnh cũ, nhớ người xưa, Nguyễn Du đã ngậm ngùi ngâm lên bốn câu thơ lục bát về tình yêu để gửi gấm lòng mình Yêu nhau những muốn gần nhauBể sâu trăm trượng, tình sâu gấp mườiVì đâu xa cách đôi nơiBến này còn đó, nào người năm xưa? Tìm hiểu thêm về 🔰Thơ Chữ Nôm Của Nguyễn Du 🔰 Bên Cạnh Chùm Thơ Nguyễn Du Về Tình Yêu Những Câu Thơ Về Tình Yêu Trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã tạo nên nhiều câu thơ hay, ý nghĩa về tình yêu trong truyện Kiều. Nếu bạn quan tâm đến những câu thơ đó thì hãy xem ngay phần tổng hợp các câu thơ của Nguyễn Du về tình yêu trong truyện Kiều dưới đây nhé! Người đâu gặp gỡ làm chiTrăm năm biết có duyên gì hay không? Bây giờ rõ mặt đôi taBiết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao. Trăng thề còn đó trơ trơDám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. Ông tơ ghét bỏ chi nhauChưa vui sum họp đã sầu chia phôi. Vì chăng duyên nợ ba sinh,Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi. Long lanh đáy nước in trời,Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng. Chàng Kim từ lại thư song,Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng đong càng lắc càng đầy,Ba thu dồn lại một ngày dài ghê. Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi. Bậc mây rón bước ngọn tường,Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe?Sượng sùng giữ ý rụt rè,Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi Từ ngẫu nhĩ gặp trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn. Sinh rằng Rày gió mai mưa,Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!Dù chăng xét tấm tình siThiệt đây mà có ích gì đến ai?Chút chi gắn bó một hai,Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh. uồng văn hơi giá như đồng,Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím Tương phất phất gió đàn,Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình. Đã lòng quân tử đa mang,Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung. Lượng trên quyết chẳng thương tình,Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi. Nước non cách mấy buồng thêu,Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng. Nhẫn từ quán khách lân la,Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai. Cách tường phải buổi êm trời,Dưới đào dường có bóng người thướt tha. Lần theo tường gấm dạo quanh,Trên đào nhác thấy một cành kim tay với lấy về nhàNày trong khuê các đâu mà đến đây? Tan sương đã thấy bóng người,Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ. Sinh đà có ý đợi chờ,Thoa này bắt được hư không,Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?Tiếng Kiều nghe lọt bên kiaƠn lòng quân tử sá gì của thoa nào của mấy mươi,Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao! Tiếng sen sẽ động giấc hòe,Bóng trăng đã xế hoa lê lại khuâng đỉnh Giáp non Thần,Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng. Khi gió gác khi trăng sân,Tay tiên chuốc rượu câu thần nối hương sớm khi trà trưa,Bàn vây điểm nước, đường tơ hoạ đàn. Rồi ra lạt phấn phai hương,Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?Vả trong thềm quế cung trăng,Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong. Thương sao cho vẹn thì thương,Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng. Bấy lâu nghe tiếng má đào,Mắt xanh chẳng để ai vào có không?Một đời được mấy anh hùng,Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi! Thưa rằng Lượng cả bao dong,Tấn Dương được thấy mây rồng có thương cỏ nội hoa hèn,Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!Nghe lời vừa ý gật đầu,Cười rằng Tri kỷ trước sau mấy người! Một lời đã biết tên ta,Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau! Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,Hoa quan phấp phới hà y rỡ cờ, nổi trống lên đàng,Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau. Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,Thấy trăng mà thẹn những lời non thu từng biếc xen hồng,Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn. Nhớ lời nguyện ước ba sinh,Xa xôi ai có thấu tình chăng ai? Tóc thề đã chấm ngang vai,Nào lời non nước nào lời sắt son. Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng!Duyên em dù nối chỉ hồng,May ra khi đã tay bồng tay lòng cố quốc tha hương,Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời hồng bay bổng tuyệt vời,Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm. Hải đường mơn mởn cành tơ,Ngày xuân càng gió càng mưa càng hoa hoa nguyệt não xuân ai dễ cầm lòng được chăng? Hương càng đượm lửa càng nồng,Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen. Biết thân đến bước lạc loài,Nhị đào thà bẻ cho người tình chung. Anh hùng mới biết anh hùng,Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?Nàng rằng Chút phận ngây thơ,Cũng may dây cát được nhờ bóng cây. Đến bây giờ mới thấy đây,Mà lòng đã chắc những ngày một nhau trông mặt cả cười,Dan tay về chốn trướng mai tự tình. Tiệc bày thưởng tướng khao binhOm thòm trống trận, rập rình nhạc hoa bõ lúc phong trần,Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày. Ngoài Thơ Nguyễn Du Về Tình Yêu, Đón Đọc 👉 3254 Câu Thơ Truyện Kiều 👈 Trọn Bộ Những Bài Thơ Hay Khác Của Nguyễn Du Cuối cùng, bạn đọc có thể xem thêm một số bài thơ hay khác của Nguyễn Du sau đây. Độc Tiểu Thanh Ký 讀小青記 西湖花苑盡成墟,獨吊窗前一紙書。脂粉有神憐死後,文章無命累焚餘。古今恨事天難問,風韻奇冤我自居。不知三百餘年後,天下何人泣素如。 Phiên âm Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,Độc điếu song tiền nhất chỉ phấn hữu thần liên tử hậu,Văn chương vô mệnh luỵ phần kim hận sự thiên nan vấn,Phong vận kỳ oan ngã tự tri tam bách dư niên hậu,Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Dịch thơ Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang,Thổn thức bên song mảnh giấy phấn có thần chôn vẫn hận,Văn chương không mệnh đốt còn hờn kim cổ trời khôn hỏi,Cái án phong lưu khách tự biết ba trăm năm lẻ nữa,Người đời ai khóc Tố Như chăng? Sơn Cư Mạn Hứng 山居漫興 南去長安千里餘,群峰深處野人居。柴門晝靜山雲閉,藥圃春寒隴竹疏。一片鄉心蟾影下,經年別淚雁聲初。故鄉弟妹音耗絕,不見平安一紙書。 Phiên âm Nam khứ Trường An thiên lý dư,Quần phong thâm xứ dã nhân môn trú tĩnh sơn vân bế,Dược phố xuân hàn lũng trúc phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,Kinh niên biệt lệ nhạn thanh hương đệ muội âm hao tuyệt,Bất kiến bình an nhất chỉ thư. Dịch thơ Kinh đô khuất nẻo dặm ngàn xa,Giữa chốn non xanh một túp lặng cửa sài mây phủ kín,Trời xuân vườn thuốc trúc lơ quê lai láng gương thiềm rọi,Lệ cũ đầm đìa tiếng nhạn thưaXa cách các em tin tức bặtBình yên mấy chữ thấy đâu mà. Đối Tửu 對酒 趺坐閒窗醉眼開,落花無數下蒼苔。生前不盡樽中酒,死後誰澆墓上杯。春色漸遷黃鳥去,年光暗逐白頭來。百期但得終朝醉,世事浮雲真可哀。 Phiên âm Phu toạ nhàn song tuý nhãn khai,Lạc hoa vô số há thương tiền bất tận tôn trung tửu,Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi?Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ,Niên quang ám trục bạch đầu kỳ đãn đắc chung triêu tuý,Thế sự phù vân chân khả ai. Dịch thơ Ngồi bên cửa sổ mắt đờ say,Trên thảm rêu xanh hoa rụng đã không vơi bầu rượu được,Chết rồi ai rưới mộ mình đây?Sắc xuân dần đổi, chim vàng lánh,Năm tháng ngầm xui tóc bạc được trăm năm say khướt mãi,Việc đời mấy nỗi, nghĩ buồn thay! Há Than Hỷ Phú 下灘喜賦 心香拜禱將軍祠,一掉中流肆所之。到處江山如識趣,喜人蛇虎不施威。萬株松樹僧人屋,一帶寒煙燕子磯。寂寂船窗無箇事,漁歌江上看斜暉。 Phiên âm Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ từ,Nhất trạo trung lưu tứ sở xứ giang sơn như thức thú,Hỷ nhân xà hổ bất thi châu tùng thụ tăng nhân ốc,Nhất đới hàn yên Yến Tử ky cơ.Tịch tịch thuyền song vô cá sự,Ngư ca giang thượng khán tà huy. Dịch thơ Thành khẩn dâng hương vái trước đềnMột thuyền theo nước cứ lênh đênhMừng người rắn cọp không làm dữThích cảnh non sông như đã quenMuôn cụm tùng xanh sư trú ngụMột Hòn Én lạnh khói dâng lênBên song lặng lẽ không gì bậnNghe khúc chài ca, ngó nắng nghiêng. Truyện Kiều – Hồi 01 Trăm năm trong cõi người ta,Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét qua một cuộc bể điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong,Trời xanh quen thói má hồng đánh thơm lần giở trước đèn,Phong tình có lục còn truyền sử năm Gia Tĩnh triều Minh, Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững nhà viên ngoại họ Vương,Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung,Một trai con thứ rốt lòng,Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia. Đầu lòng hai ả tố nga,Thuý Kiều là chị, em là Thuý cốt cách, tuyết tinh người một vẻ, mười phân vẹn xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở cười, ngọc thốt, đoan trang,Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu càng sắc sảo mặn mà,So bề tài sắc vẫn là phần hơn. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém hai nghiêng nước nghiêng thành,Sắc đành đòi một, tài đành hoạ minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca thương làu bậc ngũ âm,Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một nhà tay lựa nên chương,Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân. Phong lưu rất mực hồng quần,Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kêÊm đềm trướng rủ màn che,Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Bạn có thể tìm hiểu thêm🔰 Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh [Nguyễn Du] 🔰 Nội Dung, Ý Nghĩa
câu thơ về nguyễn du