nghệ thuật chí phèo

NSND Lan Hương cho rằng chính ông Thuỷ Nguyên mới là Chí Phèo. Chúng tôi là nghệ sĩ, chúng tôi có khóc hay cười cũng là để phục vụ nghệ thuật, phục vụ công chúng. Ông ấy lôi nghề nghiệp của chúng tôi ra để nhạo báng khiến tôi cảm thấy rất bức xúc.. Không phải Quốc Tuấn là Chí Phèo đâu, chính ông Thủy Chí Phèo là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao viết vào tháng 2 năm 1941. Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện nghệ thuật viết truyện độc đáo của Nam Cao, đồng thời là một tấn Bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội. Dạy truyện ngắn Chí Phèo từ góc nhìn không gian nghệ thuật. 'Chí Phèo' (Nam Cao) được đánh giá là một kiệt tác của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp cận và giảng dạy 'Chí Phèo' chủ yếu chỉ từ phương diện nội dung, nhân vật mà chưa chú phẩm "Chí Phèo" và "Đời thừa" ở trường THPT, khảo sát mức độ tiếp nhận của học sinh. - Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: thực hành soạn giảng hai tác phẩm "Chí Phèo" và "Đời thừa" của Nam Cao theo hướng tiếp cận phong cách nghệ thuật của nhà văn. Điều này được thể hiện rất rõ trong lĩnh vực văn học: "Chí Phèo" của Nam Cao là một tác phẩm điển hình với hai hình tượng nhân vật tiêu biểu là Chí Phèo và Bá Kiến. Bằng ngòi bút sắc bén của mình, Nam Cao sử dụng ngôn từ để vẽ lên chân dung Chí - một anh Gute Fragen An Jungs Zum Kennenlernen. Trước khi bước sang bài văn mẫu phân tích giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, HOC247 mời các em xem thêm video bài giảng của cô Phan Thị Mỹ Huệ hướng dẫn đọc hiểu truyện ngắn để qua đó giúp các em thấy được những đặc sắc về giá trị nghệ thuật mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm. Bài giảng giúp củng cố lại những kiến thức cần thiết cho các em để tiến hành viết bài văn được chính xác và hấp dẫn hơn. Mời các em cùng theo dõi! A. Sơ đồ tóm tắt gợi ý B. Dàn ý chi tiết a. Mở bài Giới thiệu về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo Dẫn dắt vào vấn đề giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Chí Phèo b. Thân bài Khái quát chung Xuất xứ Nam cao đặt tên cho tác phẩm này là Cái lò gạch cũ, 1941 đổI lạI là Đôi lứa xứng đôi, 1945 sửa lạI là Chí Phèo, in trong tập Luống cày. Tóm tắt Chủ đề Qua số phận của nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã lên án sâu sắc xã hội tàn bạo, chà đạp lên nhân phẩm con người đồng thời thể hiện tình thương yêu sâu sắc và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Nội dung Nghệ thuật điển hình hoá nhân vật Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình đặc sắc trong tác phẩm. Vừa sinh động, độc đáo, không lặp lại, các nhân vật này mang sức khái quát cao cho mối xung đột diễn ra khốc liệt ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo. Hắn là điển hình sinh động cho những người nông dân cố cùng bị hủy hoại, tha hoá đến tận cùng bởi thế lực tàn xây dựng nhân vật điển hình sắc nét Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình trong tác phẩm tạo nên những đoạn văn tuyệt bút. Số phận và bi kịch của Chí Phèo được đào sâu cực độ qua những đoạn văn hay như đoạn Chí Phèo thức tỉnh sau đêm say rượu gặp Thị Nở; đoạn Chí Phèo bị cự tuyệt tình yêu... Kết cấu vòng tròn, khép kín đã tạo nên chiều sâu cho thiên truyện Mở đầu truyện bằng hình ảnh đứa bé trần truồng xám ngắt nằm bên chiếc lò gạch cũ, kết thúc bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng nghĩ đến một cái lò gạch xa xôi vắng người qua lại.... Kết cấu này cho thấy số phận bế tắc, quẩn quanh không lối thoát của kiếp người trong xã hội bóc lột. Chí Phèo chết nhưng còn bao nhiêu số kiếp Chí Phèo tái diễn?-> Cốt truyện dộc đáo, các tình tiết giàu kịch tính, luôn biến hoá mang lại nhiều bất ngờ cho người đọc Ngôn ngữ, giọng điệu của Nam Cao được thể hiện một cách sinh động, đa dạng trong truyện ngắn này. Ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, khách quan, sắc lạnh lại vừa đằm thắm, trữ tình như hòa quyện, xuyên thấm vào nhau. Ngoài ra, giọng trần thuật cũng thay đổi phù hợp với diễn biến tâm lý nhân vật, khi thì dùng lời kể trực tiêp, khi thì nửa trực tiếp, khi lại có sự đan xen giữa hai giọng kể trên một cách nhịp nhàng, nhuần nhuyễn đoạn văn mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả tâm trạng khi ăn bát cháo hành, đoạn độc thoại nội tâm của Bá Kiến. Cách dẫn chuyện linh hoạt và vô cùng hấp dẫn Đoạn mở đầu rất độc đáo gây ấn tượng mạnh bi lối trần thuật nửa trực tiếp, có sự đan xen giữa lời người kể chuyện “Hắn vừa đi vừa chửi...” với độc thoại của nhân vật Ờ! Thế này thì tức thật!... Tác giả đã phá vỡ trật tự thông thường, dùng lối tự sự theo dòng nội tâm nhân vật để thuật lại diễn biến sự việc. Vì thế, trong lời trần thuật, hiện tại và hồi ức cứ lồng ghép vào nhau đoạn mở đầu, đoạn tả Chí Phèo “bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài” ở cuối truyện,..., lời người kể và lời nhân vật có khi nhập vào nhau khiến cho điểm nhìn trần thuật cũng thay đổi một cách linh động lúc thì câu chuyện được thuật lại bằng một cái nhìn khách quan từ bên ngoài, lúc lại chuyển hoá thành điểm nhìn chủ quan của nhân vật từ bên trong. So với dung lượng của một truyện ngắn thì đây là một truyện tương đối dài, nhưng nó không hề nhàm chán bởi cách dẫn chuyện luôn biến ảo cùng những độc thoại nội tâm sinh động chẳng hạn độc thoại nội tâm của Chí Phèo sau cơn tỉnh rượu. c. Kết bài Những cảm nhận và đánh giá khái quát về vấn đề Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân Bài văn mẫu ​Đề bài Giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao Gợi ý làm bài​ Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại. Truyên ngắn Chí Phèo 1941 đã được xếp vào hàng kiệt tác bởi Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” cả về nội dung và nghệ thuật. Ở tác phẩm này nhà văn Nam Cao đã thể hiện được một trình độ bậc thầy về nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, khám phá miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật, kết cấu tác phẩm một cách độc đáo và có một vốn ngôn ngữ phong phú sinh động cho mọi loại hinh nhân vật. Theo dõi từng trang truyện ngắn đặc sắc này chúng ta sẽ thấy rât rõ tài nghệ đó của Nam Cao. Nói đến văn xuôi là nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, mỗi nhà văn có một cách thể hiện khác nhau và thành công ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà văn Nam Cao ở tác phẩm này thì ông đã xây dựng được thành công cả tuyến nhân vật chính diện và phản diện và không những thành công mà thành công ở cấp điển hình. -Để tham khảo nội dung đầy đủ của tài liệu, các em vui lòng tải về máy hoặc xem trực tuyến- Một phương diện nghệ thuật mà nhà văn rất thành công ở truyện ngắn Chí Phèo đó là cách sử dụng ngôn ngữ rất phù hợp với từng đối tượng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hoá. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằng thô lỗ đó là loại ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tacs phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm. Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyên ngắn xuất sắc tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng tám nói chung của nhà văn Nam Cao nói riêng. Tác phẩm này thành công trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức, nhưng đặc biệt nhất vẫn là nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm. Cùng một vấn đề rất phổ biến của xã hội lúc bấy giờ nhưng với tài nghệ của mình Nam Cao dẫ điển hình hoá được cả hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Đọc tác phẩm này chúng ta vừa cảm phục được cái tâm của tác giả lại vừa cảm phục cái tài của tác giả. Cái tâm và cái tài đó là tiền đề để nhà văn thành công ở tác phẩm này. Mong rằng, tài liệu trên đã giúp các em hiểu rõ hơn dụng ý cũng như tư tưởng của nhà văn Nam Cao qua những nét đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Chí Phèo. Chúc các em học tốt hơn truyện ngắn Chí Phèo với tài liệu văn mẫu này. -MOD Ngữ văn HOC247 tổng hợp và biên soạn Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao dưới góc độ thi pháp Nam Cao bắt đầu sáng tác từ năm 1936, nhưng đến tác phẩm Chí Phèo, nhà văn mới khẳng định được tài năng của mình. Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, một truyện ngắn có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, chứng tỏ trình độ nghệ thuật bậc thầy của một nhà văn lớn. Thời gian 1941–1944 là thời sáng tác sung mãn và có hiệu quả nhất trong đời viết văn của Nam Cao. Cố nhiên, ngòi bút viết văn của Nam Cao không đạt kỷ lục nào về số lượng, về độ dài hay độ dày. Cái mà ông đạt tới đỉnh cao là chất lượng mới chất lượng ngôn ngữ nghệ thuật, chất lượng tư duy xã hội và tư duy văn học. Chí Phèo là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao viết vào tháng 2 năm 1941. Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện nghệ thuật viết truyện độc đáo của Nam Cao, đồng thời là một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội. Chí Phèo cũng là tên nhân vật chính của truyện. Trong Chí Phèo của Nam Cao, cái nhìn nghệ thuật của tác giả về con người qua hình tượng Chí Phèo là hai con người trong một con người với sự quyết đấu sinh tử Con người nhân tính, thiên lương và con người tha hóa, ác quỷ. Các điểm nhìn Chí Phèo được thể hiện ở các nội dung tiêu biểu lúc lọt lòng, tuổi ấu thơ với con số không trống trụi, ở đợ nhà bá Kiến và bị hàm oan; Chí Phèo trong quan hệ với bá Kiến và thị Nở, cái kết của số phận Chí Phèo. Cần phải tiếp cận và khai mở thi pháp của hình tượng này trong quan niệm, cái nhìn, điểm nhìn và bút pháp nghệ thuật của Nam Cao ở vấn đề cơ bản nhất là hai con người trong một con người. Đặc điểm này sẽ chi phối những vấn đề khác như không gian, thời gian nghệ thuật, giọng điệu, ngôn từ. Trong cấu trúc thẩm mĩ suốt hành trình cuộc đời của Chí, hai con người có lúc song hành tương hợp, có lúc tương khắc và cuối cùng là sự quyết đấu sinh tử. Ngay điểm chào đời, khởi đầu của lộ trình bi kịch thân phận Chí Phèo, Nam Cao đã đặt con người này ở điểm nhìn trơ trọi, cô lạnh, buồn tủi trên cái nền của lò gạch cũ bỏ không. Đấy không chỉ là dụng ý nói lên sự luẩn quẩn bế tắc của thân phận con người khi lặp lại chi tiết lò gạch cũ trong ý nghĩ của thị Nở ở cuối truyện, mà cơ bản là để tạo một điểm nhấn, một dấu ấn tái tê, sầu tủi vào thân phận, tâm thức Chí Phèo thiếu vắng hơi người, tình người, hương người, đặc biệt là tình ruột thịt. Điều này sẽ ám ảnh Chí mãi và lộ diện bằng nỗi đau tức trong tiếng chửi của Chí Phèo, trong cảm nhận của Chí về thị Nở, trong tiếng kêu đòi lương thiện cuối đời. Tiếp theo đấy, Nam Cao di chuyển điểm nhìn từ Chí Phèo sang những thân phận liên quan, có ý nghĩa tạo nên tính cách của Chí. Đó là những thân phận cũng ít nhiều trống trụi, cô lẻ, thiếu khuyết người đàn bà góa mù, bác phó cối không con. Trước khi đến với bác phó cối thì Chí bị cho, bị bán. Và sau khi bác phó cối không con chết thì Chí bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Tại sao lại có lắm chi tiết gắn với con số không đến thế lò gạch cũ bỏ không, người đàn bà góa mù không chồng, mắt không nhìn thấy, bác phó cối không con, rồi không nhà cửa, không người thân, việc đi ở đợ không ổn định, ngay đến cái thẻ có biên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, khi Chí chửi thì không ai lên tiếng. Xâu chuỗi những cái không ấy ở điểm nhìn nhân vật sẽ tạo một hệ qui chiếu rọi vào tâm trạng thuở thiếu thời của Chí, và sẽ thành những khối sầu nặng trĩu khi con số không vẫn được tiếp nối kéo dài, khắc sâu, dù khi Chí đã lớn, đã ở bên kia dốc cuộc đời. Những điểm nhìn không bình luận này của Nam Cao hoàn toàn không phải không có dụng ý mà ngược lại, chúng được cài cấy cho sự khởi đầu và đổ nền hết sức quan trọng trong quá trình thiết kế đời sống tâm lí và nhân cách nhân vật. Những điểm nhìn ấy trong cái nhìn nghệ thuật của Nam Cao mang tính đa trị vừa có tính chất hoàn cảnh, xã hội vừa có tính chất tâm lí. Các chi tiết quan hệ xã hội của Chí là thuộc điểm nhìn không gian bề nổi, và không gian chìm là những dấu ấn buồn tủi, cô đơn, trơ trọi, trống vắng, hoang lạnh vì thiếu vắng tình người trong tâm trạng Chí. Điều đó là đầu mối của những con sóng chìm trong dòng chảy mãi về sau. Do vậy, tiếng chửi, một khi Chí đã thành con quỉ dữ, găm cả vào đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thằng Chí Phèo trong đoạn mở đầu tác phẩm, chi tiết này được nhấn mạnh tới ba lần; và để sau này khi gặp thị Nở với bát cháo hành nóng hổi tình người, Chí sẽ rưng rưng muốn khóc. Như vậy, những tình tiết mở đầu cuộc đời Chí có ý nghĩa như đặt một phần nền móng cho tính cách, nhân cách của Chí về sau; là phần tiền đề cơ bản của con người thứ hai trong con người Chí Phèo tiếc thay, sách Hướng dẫn giảng dạy Ngữ văn 11 đã bỏ qua những chi tiết này khi cho rằng chỉ được nhà văn nói lướt qua bằng mấy câu ở đầu tác phẩm. Hai con người trong Chí đã được thiết kế ở những nét đầu và lộ trình của chúng bắt đầu phát triển, vừa có những lối riêng vừa có những sự tương tác mạnh mẽ trong sự chi phối của hiện thực. Con người bề mặt của tảng băng trôi trên hành trình ma đưa lối quỉ dẫn đường liên tiếp nhận những tai họa đổ xuống đầu, từ cơn ghen của bá Kiến, từ nhà tù thực dân – phong kiến, từ sự lợi dụng và tráo trở quỉ quyệt của bá Kiến khi Chí ra tù… Và do vậy, con người phần chìm của tảng băng là thiếu thốn tình thương, hơi ấm đồng loại, là ý thức về vinh và nhục, tinh thần và thể xác rạch ròi, đúng đắn và khát khao có một mái ấm dù chỉ là chồng làm thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…, bị nhấn xuống càng sâu hơn. Sau khi Chí ở tù về, dẫu rằng nhân hình, nhân tính có những thay đổi nhất định nhưng cho tới khi Chí cầm chai đến tính sổ với bá Kiến thì chưa hẳn Chí đã là con quỉ dữ, và đấy vẫn là giai đoạn Chí ý thức rõ được kẻ thù, chưa bồng bềnh trôi trong hoang tưởng và vô định. Việc Chí đến nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi ngay khi ra tù được một ngày thể hiện điều đó. Thế nhưng, bá Kiến đã hạ gục Chí bằng ba ngón đòn hiểm độc mà một kẻ như Chí lúc đó không thể đỡ nổi gọi Chí bằng anh, mời vào nhà đãi cơm gà và nhận họ. Ba viên đạn bọc đường này được Chí ngộ nhận là đã tẩy trừ những nỗi đau của con người thứ hai trong mình không gia đình – thì bây giờ đã có họ hàng, mà lại họ hàng với cụ bá, người đời coi thường gọi bằng thằng thì bây giờ đã được gọi bằng anh, thực tế và mặc cảm bé mọn thì đã có vị thế từ đặc ân được đãi cơm gà và cho tiền uống rượu. Đến đây thì con người thứ hai bị chặn lối, bị lạc lối, rẽ sang một bước ngoặt mới trong sự hoang tưởng về giá trị thực của bản thân hắn thấy hắn cũng oai, thử hỏi có mặt nào trong cái làng hơn hai nghìn suất đinh này làm được thế? Vì thế, đêm hôm ấy, ở nhà Bá Kiến ra về, Chí Phèo vô cùng hả hê! Bằng ba ngón đòn độc liên hoàn đánh trúng vào điểm huyệt vừa tâm thức vừa đời thường của Chí Phèo, bá Kiến nhanh chóng thay đổi tình thế chuyển Chí, từ chỗ là kẻ thù, thành kẻ tay sai; chuyển mình, từ chỗ là đối tượng trả thù của Chí, thành ân nhân của Chí. Chí hoàn toàn mất phương hướng. Bây giờ không còn đối tượng trả thù thì sao nguôi giận được khi kẻ thù bỗng chốc thành chủ nhân, mà mối thù và nỗi đau thì còn nguyên đấy! Như vậy là khi ra tù về làng, Chí còn tỉnh lắm nên đã đến nhà bá Kiến đòi nợ ngay. Nhưng sau khi Chí ở nhà bá Kiến về thì Chí ảo tưởng về giá trị bản thân. Từ đây cho đến khi gặp thị Nở, Chí bước vào một nhà tù mới, một nhà tù không có vách ngăn, không có tường bao, không có luôn cả thời hạn được tự do. Chí sẽ làm gì khi còn ôm nguyên mối hận mà không biết trả thù ai? Chí sẽ làm gì khi liên tiếp bị bá Kiến sử dụng làm tay sai cho những chuyện đâm chém để Chí càng hoang tưởng về bản thân hơn khi tự nhủ rằng anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta? Không biết trả thù ai thì lấy việc uống rượu cho nguôi ngoai, đó chính là sự tự hủy hoại bản thân. Và rồi hiển nhiên, hệ quả tất yếu là trút giận lên những người dân hiền lành vô tội. Mà càng như thế tức là Chí càng bị đẩy trượt xa hơn khỏi biên giới loài người. Trong chặng đời này cho tới khi Chí gặp thị Nở, hai con người trong Chí thể hiện rất rõ sự không tương hợp. Theo cách nói của M. Bakhtin thì ở Chí đã xuất hiện sự không tương hợp cơ bản giữa con người bên ngoài và con người bên trong. Hai con người trong Chí vẫn song hành. Trên bề mặt của tảng băng, những hành vi rạch mặt ăn vạ, gây ác cho dân lành hiển hiện hằng ngày. Càng gây sự, càng kiếm chuyện, càng rượu say thì càng tự hủy hoại mình và càng xa loài người. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa con người thiên lương, con người nhân tính, con người với bản thể nguyên sơ thèm khát hơi ấm giống người trong Chí đã hoàn toàn biến mất. Nam Cao đã rất tài tình khi hé lộ một phần những sóng ngầm nỗi đau của con người thứ hai trong Chí ở điểm nhìn tiếng chửi của Chí. Có thể coi tiếng chửi của Chí là nhịp cầu nối giữa hai con người trong một con người Chí, là cái mã kí hiệu nghệ thuật lưỡng trị nếu tách riêng ra khỏi toàn cục đời Chí thì đấy là biểu hiện ngang tàng, vô văn hóa, vô đạo đức của con người bề mặt cả làng Vũ Đại hiểu như thế; nếu xét nó như một yếu tố, một phân hệ trong hệ thống thẩm mĩ toàn cuộc đời Chí thì nó mở ra thế giới chìm khuất nỗi buồn, tủi phận, cay đắng của con người thứ hai trong Chí. Vậy bản chất và ý nghĩa tiếng chửi của Chí là gì? Tại sao Nam Cao lại cho xuất hiện kí hiệu này ở vị trí ngay đầu tác phẩm? Trước hết, cần khẳng định ngay rằng tiếng chửi của Chí không phải vô cớ, mà hàm chứa những thông điệp nhất định. Đó là sự oán hận tất cả, coi thường tất cả, phủ nhận tất cả khi chửi trời, chửi đời, chửi làng Vũ Đại. Nhưng tại sao lại chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn? Điều này có vẻ vô lí, ngược đời nhưng hàm chứa trong đó cái lí của nghệ thuật Chí không có gì cả, tất cả chỉ là con số không trống trụi, vô nghĩa; dù bị loài người quay lưng, nhưng Chí vẫn cứ thèm hơi ấm con người. Thế nên, khi không thể tìm được mối dây liên hệ với đồng loại theo lẽ thường thì Chí buộc phải dùng con đường giao tiếp bằng tiếng chửi, thông qua tiếng chửi, vì nếu có ai chửi lại thì Chí có thể tìm được mối dây liên hệ với đồng loại, cho dù chỉ bằng tiếng chửi, qua tiếng chửi. Đấy chính là lí do khi không có ai chửi lại thì Chí tức chết đi được mất và liền chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn! Và tột cùng trong thất vọng, cay đắng, Chí chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! Rốt cuộc, ngay cả tìm mối liên hệ với con người dù chỉ qua tiếng chửi cũng không được, và chỉ có tiếng đáp trả của ba con chó dữ mà thôi. Càng chửi thì càng tức vì không có ai chửi lại, càng tức thì càng uống, càng say, càng say thì càng có thể làm tất cả vì hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta bảo hắn làm. Đấy là cái vòng luẩn quẩn của Chí trong cái nhà tù mênh mông không vách, không tường, không phạm vi không gian và thời gian sau ba miếng bả bá Kiến tung ra, Chí nhầm tưởng và nuốt vội ngon lành trong ngày xách vỏ chai đến trả hận. Nếu không có tiếng chửi thì phần chìm trong con người Chí không có cơ thể hiện, nếu không có tiếng chửi thì toàn bộ quãng đời từ khi ra tù đến khi gặpthị Nở chỉ có phần nổi là những tội lỗi Chí làm trong khi say và làm vì người ta bảo hắn làm. Đấy chính là ý nghĩa điểm nhìn nghệ thuật tiếng chửi của Chí trong thi pháp cấu trúc nhân vật. Mặt khác, những chi tiết điểm xuyết như hắn làm điều đó trong khi say, hắn làm điều đó vì người ta bảo hắn làm và bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm đã lộn ngược sự tôn trọng trong từ cụ chỉ bá Kiến và sự khinh thị trong từ hắn chỉ Chí Phèo. Theo đó thì khi tỉnh, Chí không làm, nếu người ta không bảo thì Chí không làm. Điều đó bổ trợ thêm để người đọc không hoàn toàn phủ nhận Chí, đồng thời nhận ra rằng đằng sau con người thứ nhất hiển lộ bề mặt với những chửi bới, rạch mặt, đốt nhà, gây hại cho người lành là con người thứ hai vẫn tồn tại, vẫn âm ỉ, day dứt và quặn thắt nỗi niềm như sóng ngầm không ngừng cồn cào trong chiều sâu tâm khảm Chí, nhưng nó không có điều kiện bộc lộ, không biết bám víu vào đâu để nương tựa, giãi bày trong lộ trình trắng, không, bị chừa ra của đời Chí. Chi tiết này được đặt ngay đầu tác phẩm như một điểm nhấn, một cách lạ hóa nhân vật của Nam Cao, một cái then cần được mở từ hiệu ứng của cả hệ thống thẩm mĩ của hình tượng. Cần thiết phải thấy điều này, bởi nếu không thì làm sao một thị Nở như thế mà lại có thể giúp Chí hoàn lương được, cho dù được cộng thêm cả tình tiết trận ốm và tâm trạng cô đơn ở tuổi xế tà bên kia dốc cuộc đời của Chí. Nghĩa là những yếu tố này, tự chúng – dù trong thế hợp lực – cũng không thể đủ sức thanh lọc Chí nếu như không có những cơn đói tình người thuở ấu thơ, và nếu như những cơn sóng ngầm của cồn cào nỗi đau trống vắng trong Chí ở đoạn từ khi ra tù đến khi gặp thị Nở đã hoàn toàn nguội tắt. Những khát khao làm lành với con người, giao cảm với con người vẫn vô cùng mạnh mẽ và hằng thường trong con người thứ hai của Chí ẩn trong tiếng chửi nên khi gặp thị Nở, với quan hệ nhục cảm, với tình thương, hương người trong bát cháo hành cộng thêm nỗi cô đơn trong sự cảm nhận về tuổi già và trận ốm, Chí đã vồ vập ngay. Đấy là hành vi ứng xử của con người bên lề chết khát, chết đói. Được thuốc trị đúng bệnh, Chí bắt đầu thấy bâng khuâng, ăn năn, và những ước mơ có vẻ tầm thường nhưng tội nghiệp, lương thiện xưa lại thấp thoáng hiện về trong hình ảnh chồng làm thuê cuốc mướn, vợ dệt vải… Thị Nở là một điều kiện quan trọng và cần thiết để con người thứ hai chìm khuất trong Chí có dịp ngoi lên, phô mình, hiển lộ. Nhưng tai sao Nam Cao lại xây dựng hình tượng thị Nở như thế? Xây dựng thế để làm gì? Hiệu quả ra sao? Thị Nở là hình tượng độc đáo hàm chứa những dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Nói cách khác thì thi pháp thị Nở chịu sự qui chiếu của thi pháp hình tượng Chí Phèo. Để nhấn mạnh nỗi khát thèm hơi ấm của con người ở Chí sâu sắc và mãnh liệt, Nam Cao không ngần ngại đẩy thị Nở về phía những đầu mút cực đoan của cái xấu, cái dở khi ông thể hiện cái nhìn nghệ thuật của mình về thị Nở ở ba điểm nhìn xấu ma chê quỉ hờn, nhà có mả hủi, dở hơi. Cả ba đặc điểm này đều tập trung triệt tiêu những khả năng thị Nở làm vợ của một người bình thường. Nam Cao còn cụ thể hóa ba đặc điểm trên bằng những chi tiết cá biệt để tạo nên cảm giác ớn sợ, kinh hãi. Thế nhưng Chí vẫn yêu, vẫn khát khao giá thế này mãi thì thích nhỉ, vẫn muốn cùng thị Nở ở một nhà cho vui, và Chí bỗng nhiên lột xác thành trẻ thơ trong veo, lương thiện khi hắn thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng thị như với mẹ. Đến đây, tuổi thơ số không và cơn khát thèm mẹ của Chí lộ nguyên hình! Một chi tiết không ngẫu nhiên nữa là năm ngày đêm đôi lứa xứng đôi này ở với nhau, đó là con số của thời gian nghệ thuật vừa đủ để con người quỉ dữ sau khi nếm trải tình đời, tình người trong nhục cảm thật lòng, sự ân cần chăm sóc được kết tụ qua hình tượng bát cháo hành và bộc bạch ngôn từ của ước mơ tội nghiệp… trở thành một người hoàn toàn khác. Cũng với chừng ấy thời gian, những năng giới được khơi tỏa, thanh lọc nên Chí mới cảm nhận được những âm vang của những người đi chợ Nam Định về kháo chuyện giá cả, của tiếng chim hót, của tiếng người đánh cá gõ thuyền trên sông. Trong thời gian ấy, Chí dường như lần đầu tiên trong đời được làm chủ về lời nói của mình, hành vi của mình, tư tưởng của mình. Trong quan niệm của Hêghen về con người trong nghệ thuật thì con người như thế mới là tinh thần Trong khi tồn tại với tính cách một đối tượng của tự nhiên, đồng thời y còn tồn tại cả cho mình nữa y tự ngắm nhìn mình, quan niệm về mình, suy nghĩ và chỉ qua cái hoạt động tồn tại vì mình như thế y mới là tinh thần. Còn theo đây chính là kiểu cá thể hình tượng mới và cao nhất, sẽ làm thay đổi tính chất của hình tượng con người Trong tiểu thuyết, con người được giao cho tính chủ động về tư tưởng và ngôn ngữ, tính chủ động này sẽ làm thay đổi tính chất của hình tượng con người kiểu cá thể hóa hình tượng mới và cao nhất. Chí chầm vập thị Nở, nhưng hoàn toàn không phải chỉ là chiếm đoạt để thỏa mãn nhu cầu nhục cảm nhất thời, mà cái quan trọng nhất Chí cảm nhận được từ mối quan hệ này là tình người, hơi ấm đồng loại. Điều đó là cơn khát mạnh nhất luôn triền miên trong dòng chảy tâm thức của Chí từ sự ám ảnh không cha không mẹ, ám ảnh bởi cái lạnh của lò gạch bỏ không, của nhưng con số không hãi hùng như một hằng số liên tiếp trong đời mình. Như vậy, Nam Cao xây dựng nhân vật thị Nở với dụng ý không chỉ tạo ra bước ngoặt trong cuộc đời Chí, mà chủ yếu là để thể hiện nỗi mong ước, khát khao làm người trong con người thứ hai của Chí mạnh mẽ biết bao, bởi thị Nở xấu như thế, tệ như thế, dở như thế mà Chí vẫn yêu và yêu một cách thành thực, yêu và hướng về mong ước vợ chồng rất đáng cảm thương, trân trọng. Xét về ý nghĩa thi pháp, hình tượng thị Nở chính là phép thử, điều kiện, chất xúc tác để con người thứ hai trong Chí hiển lộ một cách thuyết phục, biện chứng. Tất cả được đặt trên cái nền hoang lạnh với vườn chuối, bãi sông, ánh trăng của không gian nghệ thuật một cách hiệu ứng, phù hợp. Nhưng tình yêu tan vỡ, thị Nở bội tình, cái nhịp cầu mà Chí những tưởng sẽ nối đến bờ lương thiện của loài người gãy gục chóng vánh đến mức làm Chí sững sờ. Đến đây, sự bừng tỉnh trong Chí vọt trào sau sự ngỡ ngàng thoáng chốc không thể lương thiện được nữa rồi. Hành vi Chí tự sát sau khi giết bá Kiến là điểm gặp cuối cùng trong một cuộc quyết đấu gay gắt và căng thẳng của hai con người trong Chí con người ác thú và con người lương thiện đã xung đột ở đỉnh điểm mâu thuẫn, con người lương thiện đã chiến thắng qua nhát dao kết liễu con người quỷ dữ, tha hóa, vô lương. Chí gục ngã nhưng với tay về phía cõi người, nhoài người về phía thiên lương. Chí không gục ngã trước cái ác mà trước cánh cửa lương thiện với một khát khao hoàn lương mãnh liệt vô bờ. Con người thứ nhất bị kết liễu và con người thứ hai hoàn toàn hiển lộ, bừng sáng, trong veo vẻ đẹp nhân văn. Với điều ấy, Nam Cao đã sinh hạ con người ngay trong chính con người. Đó là đặc điểm cao nhất của chủ nghĩa nhân đạo. Với thi pháp xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực. Theo Dotstoievski, việc miêu tả con người trong con người và các chiều sâu của tâm hồn con người chính là đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực trong ý nghĩa cao nhất Trong chủ nghĩa hiện thực đầy đủ phải tìm thấy con người trong con người … người ta gọi tôi là nhà tâm lí không đúng, tôi chỉ là nhà hiện thực chủ nghĩa trong ý nghĩa cao nhất, tức là tôi miêu tả tất cả các chiều sâu của tâm hồn con người. . Cái tài của người nghệ sĩ khi sáng tạo hình tượng là phải tạo nên được một cấu trúc hệ thống thẩm mĩ sao cho các yếu tố tương tác được với nhau mà vẫn rất tự nhiên, không hề gượng ép giữa các tầng nổi và chìm, khuất và lộ, hiển và hàm… Có như thế thì hình tượng mới thoát ra được khỏi cấp miêu tả trực cảm có tính xã hội học, mới bước sang được địa hạt thẩm mĩ, tư tưởng của văn chương; mới bao hàm được ý niệm trong trực cảm, triết luận trong tường thuật, đánh giá trong miêu tả… Nam Cao đã làm được điều đó khi sáng tạo hình tượng Chí Phèo – một nhân vật hiện thực đặc sắc – trong điểm nhìn nghệ thuật ở hai không gian nghệ thuật song hành, tương giao, ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau hết sức biện chứng. Không gian nổi là không gian địa lí với các quan hệ xã hội của Chí trên nền làng Vũ Đại ngày ấy. Ở không gian này, mâu thuẫn, tính kịch được tạo ra từ mối quan hệ giữa Chí Phèo với bá Kiến và thị Nở. Không gian chìm là không gian tâm cảm của Chí về thân phận, nỗi niềm, về sự thiếu khát tình người, về nỗi uất ức, căm thù nhưng không thể trả thù cho đến trước cái chết. Đó là không gian trống trụi, hoang lạnh nhưng luôn cuộn sóng. Cái không gian thứ nhất mà Chí tồn tại cho ta dáng nét ngoại hình, ứng xử, hành xử của Chí trong cái vòng luẩn quẩn tay đánh lấy chân bởi tại người ta; cái không gian thứ hai chỉ độc mỗi Chí Phèo – hệ quả của một Chí Phèo thứ hai có được một phần từ những thiếu vắng và va đập, xung đột trong không gian thứ nhất, và phần khác là sức mạnh thiên lương vốn có trong con người luôn chòi giẫy, quẫy đạp. Không gian này không biên giới, không chiều kích. Trong hai không gian đó, hai con người xuất hiện, lúc thì con người bề mặt lên tiếng, lúc thì con người bên trong quằn quại. Độ đậm nhạt của mỗi con người không đều nhau ở mỗi chặng đời của Chí. Mâu thuẫn, tính kịch ở không gian thứ hai này chính là sự xung khắc giữa cái ác và cái thiện ngay trong con người Chí. Lộ trình phát triển của nó sẽ dẫn tới xung đột mất còn. Do vậy, sự gặp gỡ qua lô gích phát triển tính cách trong cuộc quyết đấu sinh tử ở điểm cuối của hai con người trong Chí tại nhà bá Kiến là chung cục tất yếu của đỉnh điểm mâu thuẫn khi Chí nhận rõ bi kịch không thể lương thiện được nữa của mình. Thi pháp xây dựng và diễn trình đặc điểm, lô gích tính cách nhân vật Chí Phèo từ cái nhìn và những điểm nhìn nghệ thuật như thế cho phép Nam Cao dùng lời văn đa giọng điệu của lối trần thuật trầm tĩnh, sắc lạnh; giấu nỗi đau trong ngôn từ đa thanh, đa trị; giấu cái bi sau cái hài; ẩn thiên lương của nhân vật dưới bề mặt nham nhở khủng khiếp của quỷ dữ. Lô gich tính cách, tâm trạng Chí phát triển trong sự chi phối nghiêm ngặt của hiện thực nên Nam Cao hoàn toàn không cần đến trữ tình ngoại đề, và việc gọi Chí là hắn, thằng này, bá Kiến bằng cụ mang tính lưỡng trị càng đẩy cao tính khách quan của sự việc, sức chinh phục của hình tượng. Qua đó, tác giả của kiệt tác này đã chuyển việc kể và tả một cách trực cảm về cuộc đời con người xã hội học trong một không gian địa lí, thời gian lịch sử xác định, hạn hẹp, cụ thể thành một con người văn học với bi kịch sâu sắc có tầm phổ quát sâu rộng mang tính nhân loại; chuyển con người vật chất thành con người tinh thần, tư tưởng. Con người, không gian và thời gian xã hội, địa lí, lịch sử của Chí Phèo là chất liệu, điều kiện để đẩy tới điểm đến của một tư tưởng nhân văn sâu sắc và cao đẹp. Cái lô gích tính cách của nhân vật chinh phục người đọc một cách thấm thía, hiệu quả và người đọc thấy lấp lánh giá trị ý niệm đằm sâu bên trong giá trị trực cảm của nhân vật bi kịch đau đớn cho cái giá làm người, sức mạnh to lớn của hai tiếng con người, cõi người. Đó là bi kịch khát thèm lương thiện mà không được lương thiện, khát thèm hơi người mà bị đẩy ra ngoài cõi người, ghê sợ cái xấu nhưng phải làm điều xấu. Chí Phèo rơi vào bi kịch tha thóa nhân cách, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Cuộc quyết đấu cam go, sinh tử giữa Con Người và quỉ dữ mà phần thắng cuối cùng thuộc về Con Người. Nam Cao thực sự đã khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có như chính tuyên ngôn của ông. Truyện ngắn Chí Phèo đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Chủ đề chính của câu chuyện này là phê phán xã hội phong kiến ngày xưa. Trong truyện, có những sự xuất hiện của con người và nhân vật. Hơn nữa, nhà văn Nam Cao đã đề cao và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, cao quý của Chí Phèo – Thị Nở. Câu chuyện này đã nói lên sự xung đột vô cùng quyết liệt của các tầng lớp khác nhau trong xã hội phong kiến. Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Bài làm tham khảo“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác, thể hiện đầy đủ nhất tài năng nghệ thuật xuất sắc, độc đáo của nhà văn Nam Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật. Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên, Chí Phèo vừa là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”2. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.“Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát triển mới của văn học và nghệ thuật viết truyện ở nước Thầy Nguyễn Quang NinhBình luận cho bài viết Nhận xét “Nam Cao đã không hạ mình xuống bắt chước ai, không nói những cái người ta đã nói, không tả theo cái lối người ta đã tả. Ông đã dám bước chân vào làng văn với những cạnh sắc của riêng mình. Những cạnh sắc ấy, nếu ông cứ giữ cho nó sắc mãi thì chúng ta có thể tin ở tương lai văn nghiệp ông. Vườn văn Việt Nam thiếu những bông hoa lạ, thiếu những nghệ sĩ táo bạo, thiếu những bản thể đặc biệt.” – Trích lời tựa tuyển tập “Đôi lứa xứng đôi”, nhà văn Lê Văn Trương viết. “Chí Phèo” được nhà văn Nam Cao đặt tên trong bản thảo là “Cái lò gạch cũ”, nhưng có lẽ nhằm gây chú ý cho công chúng đương thời, nhà văn Lê văn Trương khi viết lời tựa cho tập truyện đã đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”. Về sau, khi in lại truyện này trong tuyển tập “Luống cày” tập truyện của 4 tác giả Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân tác giả Nam Cao đổi tên truyện của mình thành “Chí Phèo”. Xem thêm tác phẩm Việt Nam danh tác Tố Tâm Cánh hoa sa mưa Ai hát giữa rừng khuya – Gương mặt lạ trong Việt Nam danh tác Số đỏ Đứa con đáng tự hào của “Ông vua phóng sự đất Bắc” Truyền kì mạn lục Chuyện về người con gái Nam Xương “Chí Phèo” kể về cuộc đời người nông dân lương thiện bị lưu manh hóa. Chí là một đứa trẻ bị bỏ rơi ngay từ lúc lọt lòng, may mắn được người ta nhặt về nuôi rồi trở thành canh điền nhà kỳ mục Bá Kiến ở làng Vũ Đại. Vì ghen mà Bá Kiến đẩy Chí vào ngục giam. Bảy, tám năm sau Chí trở về làng gây sự với kẻ đã khiến mình đi tù, nhưng lại bị viên kỳ mục này lợi dụng, Chí trở thành tay chân của Bá Kiến, trở thành kẻ chuyên nghề đâm thuê chém mướn. Suốt vài chục năm liền Chí chìm trong những cơn say, làm việc ác trong lúc say, đến nổi không biết rằng mình đã trở thành một con quỷ dữ trong làng. Một ngày kia, sau một cuộc rượu say sưa, trên đường về nhà, giữa vườn chuối trên bãi sông, Chí bỗng thấy một người đàn bà. Chí gặp Thị Nở, sau buổi đêm ấy, sau cơn sốt ngày kế tiếp, sau bát cháo hành nghi ngút khói, cuộc đời Chí lần đầu tiên tỉnh táo sau bao nhiêu năm say… Chí thèm lương thiện, nhưng tất cả dường như đã muộn rồi. Câu chuyện xây dựng thành công sự xung đột vô cùng quyết liệt của hai nhóm người thuộc hai tầng lớp trong xã hội thực dân nửa phong kiến nhóm cường hào, vai vế bề trên gồm những Bá Kiến, Lý Cường, Đội Tảo… và nhóm cùng đinh lưu manh hóa gồm những Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ… Nhóm cường hào cai trị, bòn rút đám đông dân quê, lại cũng cạnh tranh, sát phạt nhau… Chính vì vậy, nhóm cùng đinh lưu manh hóa đã được bọn cường hào sử dụng làm công cụ để trừng trị lẫn nhau và áp chế dân làng. Truyện “Chí Phèo” khái quát một hiện tượng xã hội ở làng quê Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ vẫn luôn cưỡng lại quá trình tha hóa đó, ngay cả khi bị vùi dập nhân hình, nhân tính. “Chí Phèo” là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Ngoài ra cũng rất mới mẻ bởi nghệ thuật ngôn ngữ đặc sắc của Nam Cao. Bằng ngôi thứ ba vô hình, biết tuốt, lời văn như kẻ đứng bên trong nhân vật, hoặc đứng kề nhân vật, khiến cho việc mô tả các biến động tâm lý nhân vật trở nên hết sức sinh động. Những cơn say của Chí Phèo, dòng suy nghĩ của Chí, sự chuyển hướng bất ngờ từ suy nghĩ sang hành động… Tất cả những mảnh vụn đều trở nên liền mạch, có lý, sáng tỏ và dễ hình dung. Truyện “Chí Phèo” hầu như được giới nghiên cứu và giới mộ điệu nhất trí xem là một kiệt tác, đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, đồng thời là kiệt tác đỉnh cao của văn xuôi tự sự Việt Nam những năm 1930 – 1945. “Chí Phèo” xuất hiện trong bộ môn nghệ thuật thứ bảy cùng với hai tác phẩm khác của Nam Cao là “Sống mòn” và “Lão Hạc”, bằng cái tên “Làng Vũ Đại ngày ấy” được sản xuất năm 1982 bởi đạo diễn, NSND Phạm Văn Khoa. Vai Chí Phèo do NSƯT Bùi Cường đảm nhận – cũng là nhân vật đưa tên tuổi của ông sống mãi với thời gian. “Làng Vũ Đại ngày ấy” là một bộ phim nổi tiếng được xếp vào hàng những tác phẩm kinh điển của nền điện ảnh Việt Nam thế kỷ XX. Nghệ thuật thoát ra từ những kiếp lầm than Điểm lại xuyên suốt sự nghiệp văn chương của Nam Cao, có thể khẳng định rằng ông đã luôn giữ được những “cạnh sắc” nguyên sơ như thuở ban đầu. Văn phong, tư tưởng và nghệ thuật của ông được định hình từ rất sớm, có lẽ vì vậy mà kiệt tác “Chí Phèo” đã ra đời ngay từ cuốn sách đầu tay. Tuyển tập truyện ngắn “Đôi lứa xứng đôi” là sản phẩm đầu tay của Nam Cao, ra mắt bởi NXB Đời Mới tại Hà Nội vào năm 1941, gồm 7 truyện Đôi lứa xứng đôi Chí Phèo Nguyện vọng Hai khối óc Giờ lột xác Chú Khì người đánh tổ tôm vô hình Ma đưa Cái chết của con Mực Xuất bản trong giai đoạn mà cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đang diễn ra khốc liệt, sự chú ý của người đương thời hầu như đều tập trung vào chiến trận từ châu Á tới châu Âu, có lẽ vì thế mà tập truyện “Đôi lứa xứng đôi” khá im ắng trong dư luận văn học nghệ thuật thời bấy giờ. Phải gần hai mươi năm sau đó, thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, đất Hà thành được hòa bình, các giá trị thực sự trong sáng tác của Nam Cao mới được thừa nhận rộng rãi trong giới sáng tác, nghiên cứu và phê bình văn học. Nếu “Chí Phèo” khai thác đề tài người nông dân bị nhóm cường hào áp bức đến tận cùng, bị lưu manh hóa thành công cụ gieo rắc tội lỗi dẫn đến kết cục đồng quy vô tận để giải thoát bản thân; thì “Nguyện vọng” là sự bế tắc của một nhà giáo nghèo với một mộng tưởng xa vời khi đất nước còn long đong; “Hai khối óc” là tình yêu tuyệt vọng giữa kẻ giàu người nghèo; “Giờ lột xác” là nỗi quằn quại của giới trí thức dưới chế độ cũ, đau đớn của thời kỳ lột xác – mà ánh sáng cách mạng là chất dẫn để thời kỳ đó kết thúc trong niềm hân hoan; “Cái chết của con Mực” cũng là trang viết về nỗi lòng lực bất tòng tâm của người trí thức nghèo trước thời cuộc; riêng hai truyện “Ma đưa” và “Chú Khì người đánh tổ tôm vô hình” thuộc loại truyện ma, trong đó Nam Cao ghi lại những nét thuộc đời sống tâm linh, tâm thức dị đoan của người dân các làng quê thời đấy. Nhân vật chính đều là những “kiếp lầm than” phản ánh đời sống bần hàn của người dân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Nhật và thực dân Pháp trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thông qua những tấn bi kịch của người nông dân và người trí thức trong xã hội cũ thể hiện trong từng tác phẩm, Nam Cao thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới hai vấn đề lớn của con người là quyền được sống lương thiện và điều kiện để phát huy tài năng để sống một cuộc sống có ích, có ý nghĩa. Nam Cao không chỉ đồng tình với khát vọng sống lương thiện mà còn cổ vũ cho khát vọng được cống hiến, được sáng tạo của người trí thức, người nghệ sĩ chân chính. Tranh cãi về đề xuất bỏ tác phẩm “Chí Phèo” ra khỏi sách giáo khoa Cuối năm 2017, Nguyễn Sóng Hiền – lúc ấy là nghiên cứu sinh tiến sĩ trường ĐH Newcastle Australia – nêu quan điểm nên đưa tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao ra khỏi chương trình Ngữ Văn 11. Nguyễn Sóng Hiền lập luậnxf “Chí Phèo chẳng đại diện cho ai cả. Anh ta chỉ đơn giản là một đứa trẻ không được giáo dục, bị lưu manh hóa. Nếu nói rằng Chí đại diện cho tầng lớp nông dân bị áp bức thì thật là “tội nghiệp” cho nông dân mình quá. Trong thời gian làm thuê cho Bá Kiến, Chí vẫn được xem là con người trong xã hội ấy, người ta vẫn nhận nuôi Chí, cho ăn, cho công việc. Sau khi bị Bá Kiến đẩy đi tù vì ghen, Chí mới tha hóa. Khi Chí say, Chí chửi người đẻ ra Chí chứ đâu chửi xã hội. Sống trong xã hội hiện đại, một đứa trẻ rơi vào hoàn cảnh ấy, chưa chắc đã có cách xử sự khác hoặc cuộc đời khá khẩm hơn. Đó là một thực tế đau lòng phải chấp nhận. Chí Phèo phải bị phê phán vì hành vi cưỡng bức Thị Nở. Nở là người bị hại, bị Chí lợi dụng lúc ngủ say để cưỡng bức. Vậy thì tại sao chúng ta có thể ghép đôi cho một kẻ lưu manh với cô gái vô tội? Chưa kể sau này, Nở lại mang bầu và lại ôm thêm nỗi khổ vào thân. Dù đánh giá ở khía cạnh nào đi nữa, Chí vẫn là kẻ xấu.” Đọc được tin, bà Trần Thị Hồng con gái nhà văn Nam Cao bày tỏ rằng, bất cứ một tác phẩm văn học nào được đưa vào sách giáo khoa dạy cho học sinh chắc chắn phải được hội đồng biên soạn mổ xẻ nhiều góc cạnh, cân nhắc kỹ lưỡng, qua nhiều khâu, và tiếp thu ý kiến từ các chuyên gia, các nhà phê bình văn học. “Anh Nguyễn Sóng Hiền nói tác phẩm không có tính giáo dục là ý của cá nhân anh Hiền. Đây là lần đầu tiên gia đình tôi nghe được ý kiến trái chiều về tác phẩm.” – Bà Hồng chia sẻ. Bởi đây là “ý kiến trái chiều” hiếm hoi về tác phẩm được coi là kiệt tác của nền văn học trước năm 1945, từ một người có học thức cao, nên khiến dư luận khá xôn xao ở thời điểm đó. Khách quan thì, bất cứ một tác phẩm văn học kinh điển nào, ngoài giá trị văn học, chúng còn có giá trị lớn lao về mặt lịch sử, “Chí Phèo” cũng không ngoại lệ. Và khi phân tích các tác phẩm đó, cần đặt chúng vào thời gian lịch sử nơi chúng thuộc về, có thế thì mọi giá trị và tư tưởng mới tìm được vị trí đúng sáng. Với “Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ viết về một cuộc đời bị lưu manh hóa và quá trình cưỡng lại sự phi nhân hóa đó, mà còn vẽ lại cả một thế hệ, một xã hội với những tầng lớp, những đau khổ mà người dân Việt Nam phải chịu đựng dưới ách thống trị thực dân, thấu được những điểm mù lịch sử, học sinh thời nay sẽ hơn bao giờ hết cảm thấy biết ơn Cách mạng Tháng Tám, biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vì nền hòa bình hiện tại đến nhường nào. Đây là một trong những giá trị giáo dục. “Chí là kẻ xấu” ? Không. Chí luôn khát khao thiện lương và thèm được thiện lương. Chí chỉ rạch mặt, chỉ ăn vạ, chỉ đáng sợ… khi Chí say, khi men rượu kiểm soát hành vi, Chí trở thành kẻ liều. “Thế đấy cái nghề đời hiền quá cũng hóa ngu, ở đâu chứ ở đất này đã ngu, đã nhịn thì chúng nó ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được.” Cái xã hội mà công lý nằm trong tay kẻ có quyền và kẻ mạnh, đã ép buộc Chí phải trở thành kẻ liều. Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân, đời không cho Chí có cơ hội làm anh hùng, thì Chí phải liều mới có thể được sống. Chí Phèo là nhân vật của thời đại, là hình tượng đáng thương của người nông dân vốn thiện lương dưới chế độ thực dân nửa phong kiến bị ép vào đường cùng, đó là quy luật “con giun xéo mãi cũng quằn.” Đây là một trong những giá trị nhân đạo. Nam Cao là nhà văn hiện thực kiệt xuất, đồng thời là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Chủ nghĩa nhân đạo lấy con người làm gốc, con người với tất cả mọi nhu cầu chính đáng, năng lực trần thế và hiện thực. Nhà phê bình văn học, nhà nghiên cứu văn học, cây bút biên dịch thông tin văn học nghệ thuật Lại Nguyên Ân viết “Điều đáng kể là Nam Cao không chỉ mô tả những nông dân lưu manh hóa như những con người bị tha hóa, mất nhân tính, trở thành những công cụ gieo rắc tội lỗi, gieo rắc sự kinh hoàng vào đời sống làng quê. Ở nhân vật Chí Phèo, như nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra, Nam Cao đã cho thấy cả xu thế tha hóa, vật hóa, phi nhân hóa ở những nông dân lưu manh hóa, lại cũng cho thấy cả sự cưỡng lại quá trình vật hóa, phi nhân hóa ở những nông dân ấy. Việc Chí Phèo đến nhà Bá Kiến đòi “được làm người lương thiện”, rồi biết rằng không thể nào xóa đi những tội lỗi mình từng gây ra theo lệnh viên kỳ mục ấy, Chí xông đến giết lão rồi tự sát – hành vi ấy được nhiều nhà nghiên cứu xem như biểu hiện sự cưỡng chống quyết liệt trước xu thế tha hóa ấy của người nông dân, của con người nói chung.” PGS Đỗ Ngọc Thống, Tổng chủ biên chương trình môn Ngữ văn mới, thẳng thắn cho rằng quan điểm đưa tác phẩm Chí Phèo ra khỏi sách Ngữ văn lớp 11 của nghiên cứu sinh Nguyễn Sóng Hiền, là không đáng bàn. Vài nét về Nam Cao Nam Cao 1917 – 1951 tên thật là Trần Hữu Tri, không những là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ XX, mà còn là một chiến sĩ, liệt sĩ. Trước Cách mạng, ông là nhà văn hiện thực lớn. Sau Cách mạng, ông là một nhà báo kháng chiến. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX. Nam Cao đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại 60 truyện ngắn, 1 tiểu thuyết. Các tác phẩm của nhà văn Nam Cao nói chung, trong tuyển tập truyện ngắn “Đôi lứa xứng đôi” nói riêng, điển hình là “Chí Phèo”, thuộc dòng văn học hiện thực mang hơi thở của thời đại, có giá trị văn học, lịch sử, giáo dục và nhân đạo vô cùng to lớn trong kho tàng văn học nước nhà. Quan điểm sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng Trước Cách mạng, Nam Cao có hai quan điểm sáng tác chính. Một là, văn chương phải chân thực, phản ánh đúng bản chất cuộc sống. Hai là, văn chương cần sáng tạo. Giao thoa giữa hai quan điểm ấy, văn chương phải phản ánh cuộc sống nhưng không nên sao chép y nguyên hiện thực cuộc sống, nhà văn cần phải sáng tạo dựa trên trách nhiệm và thiên chức của người cầm bút. “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thốt ra từ những kiếp lầm than.” – Trích “Giăng sáng” 1942 – Nam Cao. Ở tập truyện ngắn đầu tay này, Nam Cao tập trung khám phá xã hội làng quê người Việt, cụ thể là làng xã miền Bắc, nơi mà sự phân tầng xã hội đã chia thành những nhóm người, những loại người, từ những dân làng vô danh, người nông dân, nhà giáo nghèo, viên chức nhỏ đến bọn cường hào, địa chủ… mà nhân vật chính thường là người nông dân và người trí thức nghèo. Những nhân vật trong văn của Nam Cao đều rất đời, được lấy cảm hứng từ chính những con người mà ông từng tiếp xúc. Link mua sách Fahasa Shopee Tiki Lazada Duyên Nếu bạn thấy bài viết này hay, xin ủng hộ team bằng cách dành thêm một giây để click vào quảng cáo. Chỉ 1s thôi, nhưng là cách tuyệt vời để duy trì blog mãi mãi Những tác phẩm của Nam Cao, tựa như những lưỡi dao đanh thép, xóa tan đi cái vẻ ngấm ngầm yên ả của một làng quê, một xã hội tàn tạ, một đất nước đang chịu cảnh tù đày. Ở Nam Cao, chất hiện thực tồn tại một cách nặng nề, ám ảnh. Cái đói, cái ăn, cái mặc quẩn quanh những nhân vật của ông, thi nhau giằng xé và đẩy chính nhân vật đến đường cùng. Nam Cao cũng là nhà văn đi đầu trong văn học hiện thực với những tư tưởng về nghệ thuật mới lạ. Trong đó, không thể không nhắc tới những không gian nghệ thuật trong các tác phẩm của ông. Không gian trong các sáng tác của Nam Cao hầu hết là vùng nông thôn, những căn nhà nơi thôn dã, những con đường làng. Trong những mối liên hệ của thời gian và không gian, làng quê, ngôi nhà, con đường hóa ra là cơ bản và quan trọng nhất, được thể hiện rất rõ qua tác phẩm Chí Phèo. Phân tích chi tiết bát cháo hành của Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo Review "Sống mòn" Nam Cao - Sống mòn cái kiếp đời thừa Những cuốn sách thiếu nhi hay nhất mọi thời đại Không gian làng Vũ Đại Khác với nhiều truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, “Chí Phèo” có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra trên cả bề rộng không gian một làng quê. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến nông thôn Việt Nam đương thời. Miêu tả về không gian làng Vũ Đại, tác giả đã dùng câu “ quần ngư tranh thực”, để diễn tả khung cảnh hỗn loạn trong một làng quê vốn dĩ tưởng yên bình. Quan lại ức hiếp nhân dân, địa chủ đè đầu nông dân, giai cấp thống trị tận hưởng hạnh phúc dựa trên nỗi đau và nước mắt của giai cấp bị trị. Không gian rộng lớn, bao trùm toàn bộ tác phẩm. Làng Vũ Đại – một cái làng đầu tỉnh cuối huyện, vừa hẻo lánh vừa xơ xác, một mảnh đất nghèo túng. Làng Vũ Đại trong “Chí Phèo” lại mang cái vẻ vắng lặng, hoang vu của một vùng quê xơ xác, chất chứa nhiều bất hạnh và đắng cay. Trong không gian u ám, tù túng ấy, đã có biết bao nhiêu số phận giống như Chí Phèo bị đày đọa. Không gian ở đây “yên tĩnh quá” đến nỗi người ta có thể nghe thấy “tiếng thở ra u ám” của những “giậu tre rậm như rừng”, thậm chí có thể nghe thấy cả “tiếng kêu rầm rĩ của những thớ gỗ trong cái kèo cái cột, hình như chúng tê mỏi mà vươn mình hay sốt ruột mà rên lên” .Cái không gian vắng lặng ấy đôi khi cũng bị khuấy lên bởi những tiếng hờ, tiếng khóc, tiếng chửi trời chửi đất, sau đó, cả làng quê lại như chìm lặng đi trong đói khát, ốm đau và tủi nhục. Làng Vũ Đại hiện lên với một vẻ hoàn toàn khác những gì người ta mường tượng về một làng quê, không còn cái vẻ yên bình của một vùng nông thôn, mà tồn tại những cơn sóng đang đe dọa những phận đời, phận người. Tất cả đều như đang cố gắng dồn con người vào đường cùng, ép họ phải chết, phải kết thúc cuộc đời của mình ngay trước ngưỡng cửa của sự lương thiện. Không gian túp lều ven sông Không gian sống của Chí Phèo nằm cạnh bờ sông, nơi con nước trong lành , nơi duy trì nguồn sống của con người, nơi có ánh trăng vàng rực rỡ, ấm áp, có tiếng chim hót ríu rít, có tiếng nói cười vui vẻ của những người đi chợ về. Ở đấy, vào “những đêm trăng như đêm nay, cái vườn phẳng ngổn ngang những bóng chuối. Những tàu chuối nằm ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay giãy lên đành đạch như là hứng tình”. Nơi một người được cho là tên côn đồ ở, là nỗi khiếp sợ của mọi người lại tách biệt hoàn toàn với thế giới lộn xộn bên ngoài, đẹp đẽ với sự bình yên thật sự. Túp lều ven sông – tài sản duy nhất của Chí Phèo được miêu tả với không gian “ẩm thấp” và ánh sáng “ hơi lờ mờ”. “Ở đâu người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Túp lều ấy “Ở gần một con sông con, nước lặng và trong, khắp bãi trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuộn theo nhau thành làn”. Dẫu hòa vào thiên nhiên, nhưng hoàn toàn bị cô lập tách biệt khỏi xã hội. Không gian này được xây dựng để miêu tả cảnh tượng lẻ loi, cô đơn của Chí Phèo, bị người đời xa lánh, khinh miệt. Túp lều ven sông trở thành một nơi đáng sợ với người dân trong làng, tượng trưng cho những định kiến xã hội thời bấy giờ. Không gian bụi chuối ven sông Khác hoàn toàn với những không gian trên, Nam Cao xây dựng không gian này đầy sự lãng mạn, nơi bắt đầu và chứng kiến mối tình của Thị Nở và Chí Phèo, mối tình nghịch đạo lý nhưng đã cứu sống được cả một đời người trước khi nó kịp lụi tàn. “Những tàu chuối đen nằm ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lạy giãy lên đành đạch như là hứng tình”. Khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, tuyệt thơ mộng thường được dùng làm bối cảnh cho các mối tình lãng mạn. Vậy mà ở đây, Nam Cao đã để Chí Phèo gặp Thị Nở - người đàn bà “ngẩn ngơ, dở hơi, xấu xí” dưới thiên nhiên vô tư, trong trẻo đầy thi vị ấy. Không gian đầy vẻ lãng mạn, tượng trưng cho sức mạnh của tình yêu có khả năng cảm hóa con người, cứu sống một cuộc đời tưởng chừng đã tha hóa trong cốt tủy. Đây là không gian đánh dấu sự nhận thức mới trong Chí Phèo, từ một con quỷ của làng Vũ Đại, đến một người đàn ông khao khát được yêu thương. Chí đã có thể có lúc tỉnh táo để mà lắng nghe âm thanh của đất trời của những cô những chị đi chợ về. Rồi chợt Chí khao khát có thể cưới vợ rồi có mảnh đất ăn với không gian nơi sống của Chí Phèo, sự thay đổi do không gian bụi chuối ven sông tác động đã dẫn tới sự thay đổi về nhận thức, khiến Chí Phèo nhìn nơi mình sống một cách tươi tắn hơn, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc trong văn học hiện thực của Việt Nam, có rất nhiều nghệ thuật được tác giả sử dụng một cách tài tình, đầy dụng ý. Không phải ngẫu nhiên mà tác phẩm này trở thành kinh điển, vừa đả kích hiện thực, vừa ca ngợi tình yêu chân thành. Thảo Nguyên Bạn đang đọc các câu chuyện cổ tích tại website - Kho tàng truyện cổ tích chọn lọc Việt Nam và Thế Giới hay nhất và ý nghĩa cho mọi lứa tuổi dành cho thiếu nhi, tổng hợp trên 3000 câu chuyện cổ tích chọn lọc hay nhất Việt Nam và thế giới. Tại luôn được cập nhật thường xuyên, đầy đủ và chính xác nhất về truyện cổ tích giúp bạn dễ dàng tìm kiếm cho mình câu truyện cổ tích cần tìm. Danh sách những truyện cổ tích việt nam hay nhất Truyền thuyết Thánh gióng, truyện cổ tích tấm cám, sọ dừa, truyền thuyết về Sơn Tinh - Thủy Tinh, truyền thuyết hồ hoàn kiếm, sự tích trầu cau, sự tích con rồng cháu tiên, truyền thuyết thành cổ loa, Cóc kiện trời, Sự tích Táo Quân, chú thỏ tinh khôn, Sự tích chùa Một cột, Chàng ngốc học khôn, Sự tích sấm sét, Sự tích hoa Mào gà, Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung, truyện cổ tích trí khôn của ta đây, Sự tích con chuồn chuồn, Sự tích Hòn Vọng Phu, Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, sự tích cây khế, Sự tích Thánh làng Chèm, Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn, Sự tích hoa mười giờ, Sự tích chim Quốc, Sự tích công chúa Liễu Hạnh, Cây táo thần, thạch sanh,… Tổng hợp các câu chuyện cổ tích thế giới hay và ý nghĩa nhất, truyện cổ grimm, truyện cổ Andersen, cổ tích thần kỳ Nàng công chúa ngủ trong rừng, Alibaba và bốn mươi tên cướp, Nàng công chúa chăn ngỗng, Cô bé lọ lem, Chú bé tí hon, Ông lão đánh cá và con cá vàng, nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Truyện cổ tích Bà chúa tuyết, Aladdin và cây đèn thần, Ba sợi tóc vàng của con quỷ, Hoàng tử ếch, Con quỷ và ba người lính, Cô bé quàng khăn đỏ,…

nghệ thuật chí phèo